SỞ GD-ĐT KIÊN GIANG           CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

 TRƯỜNG THPT VĨNH BÌNH BẮC         Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

                                                                  

BÀI THU HOẠCH

BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN NĂM HỌC 2018-2019

 

  Họ và tên giáo viên: Bùi Văn Vẹn

            Sinh ngày 03 tháng 7 năm 1978

            Ngày vào ngành : ngày 01 tháng 12 năm 2004

            Trình độ chuyên môn: ĐHSP

   Môn được phân công dạy: Tin 12ABC, tin 8AB, tin 7ABC

            Tổ chuyên môn: Lí – Tin – Công nghệ

            Chức vụ công tác:  Giáo vên

Căn cứ kế hoạch số 1414/KHSGDĐT ngày 22 tháng 8 năm 2018 về việc bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý và giáo viên năm học 2018-2019,

Căn cứ  kế hoạch số 02 /KHTHPT ngày 05 tháng 09 năm 2018 của trường THPT Vĩnh Bình Bắc về kế hoạch  bồi dưỡng thường xuyên (BDTX) cho cán bộ QL và giáo viên năm học 2018 – 2019 của nhà trường;

            Tôi xây dựng bản kế hoạch BDTX cá nhân năm học 2018 – 209 như sau:

I/ Modul 5: Môi trường học tập của học sinh THPT

1/ Nội dung nghiên cứu, học tập, bồi dưỡng

  - Các loại môi trường học tập

-  Ảnh hưởng của môi trường học tập đến hoạt động học tập của học sinh

2/ Kết quả học tập, tiếp thu cho bản thân và công việc:

Các bậc phụ huynh thường đòi hỏi con mình phải học và biết thật nhiều. Thậm chí có nhiều bà mẹ còn tìm kiếm những loại thuốc bổ, món ăn giàu chất dinh dưỡng để giúp trẻ thông minh, học giỏi. Liệu rằng, sự quan tâm như vậy có giúp các em mau chóng chiếm lĩnh được đỉnh cao tri thức của nhân loại không? Câu trả lời rằng: Trong tất cả sự quan tâm mà cha mẹ dành cho con, cần nhất đó là môi trường học tập tốt nhất để các em có thể phát huy được tối đa những năng lực và sở trường của mình.

Vậy làm thế nào để có được một trường học tập tốt nhất cho các em học sinh THPT đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội chúng ta cùng tìm hiểu: thế nào là môi trường học tập, các loại môi trường học tập, các biện phấp xây dựng môi trường học tập, xây dựng môi trường học tập ở trường học tập ở trường THPT hiện nay, quá trình vận dụng và kết quả đạt được. Trước tiên chúng ta cùng tìm hiểu thế nào là môi trường và môi trường học tập của học sinh THPT.

a. Khái niệm môi trường học tập

Môi trường học tập là các yếu tố tác động đến quá trình học tập của học sinh bao gồm:

1

 


– Môi trường vật chất: Là không gian diễn ra quá trình dạy học gồm có đồ dùng dạy học như bảng, bàn ghế, sách vở, nhiệt độ ánh sáng, âm thanh, không khí…

– Môi trường tinh thần: Là mỗi quan hệ giữa giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh, giữa nhà trường- gia đình – xã hội… Các yếu tố tâm lí như động cơ, nhu cầu, hứng thú, tính tích cực học tập cửa học sinh và phong cách, phương pháp giảng dạy của giáo viên trong môi trường lớp.

– Môi trường học tập rất đa dạng, cần được tạo ra ở nhà trường, gia đình, xã hội. Môi trường sư phạm là tập hợp những con người, phương tiện đảm bảo cho việc học tập đạt kết quả tốt. Mọi trường sư phạm là nội dung cơ bản của môi truờng nhà trường.

– Trong tài liệu “Curriculum Development – A Guìde to Practìce” đã quan niệm, môi truờng học tập gồm:

+ Môi trường học tập theo truyền thống: Nhà trường là môi trường đơn độc tĩnh lặng và trật tự. Bầu không khí này là kết quả cửa áp lực theo định nghĩa hẹp của nền giáo dục chính quy, cửa vào giới hạn cho một số người và theo phong cách giáo huấn, mô phạm (nói, nghe) đối với việc học tập.

+ Trường học đổi mới cơ cẩu tổ chức hoàn toàn trái ngược với phong cách truyền thống. Trường thường được mở rộng hơn, ồn ào hơn và đôi khi như những trung tâm với các hoạt động. Các trường học như thế thường là kết quả của cả hai sụ thay đổi: Định nghĩa trường học và cách hiểu mới về điều kiện môi trường để củng cố việc học.

+ Có ba tiêu chuẩn để đánh giá môi trường học tập ca nhà trường: Mỗi liên hệ giữa nhà trườmg với cộng đồng xung quanh, cấu trúc và cách sử dụng các tòa nhà và sân bãi, cách tổ chức không gian học lập trong từng nhà.

+ Nhà trường mong muốn mở rộng các phản hồi của học sinh về quá trình học tập thường khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động của nhà trường, Không gian hấp dẫn vui vẻ, đầy màu sắc, sân trường được sử dụng rộng rãi trong nhiều hoạt động…

+ Cuộc cách mạng trong xây dụng trường học: Một môi trường nhà trường sinh động, năng nổ thể hiện một trung tâm học tập chủ động, sáng tạo.

+ Không gian lớp học: Cách truyền thống là sắp xếp phòng học sao cho tất cả mọi cái nhìn và sự chú ý tập trung vào người thầy, các hoạt động trùng khớp với cách sắp xếp đồ đạc.

+ Toàn bộ hệ thống môi trường học tập, môi trường dạy học, môi trường giáo dục trong trường phải được tiếp cận hệ thống, đó là các quan hệ thầy – trò, quan hệ trò – trò, quan hệ nhóm lớp của học sinh, quan hệ của học sinh với nhà quản lí, mà bản chất của các mổi quan hệ là dựa trên quan hệ pháp luật, nhân văn, đạo đức, cộng đồng hợp tác.

Như vậy, môi trường học tập là toàn bộ các yếu tố vật chất, không gian và thời gian, tình cảm và tinh thần – nơi học sinh đang sinh sống, lao động và học tập, có ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến sự hình nhân cách cửa học sinh phù hợp với mục đích giáo dục.

b. Các loại môi trường học tập

b.1. Môi trường học tập nhà trường

1

 


– Giáo dục nhà trường là hoạt động giáo dục trong các trường lớp thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo mục đích, nội dung, phương pháp có chọn lọc trên cơ sở khoa học và thực tiến nhất định. Giáo dục nhà trường được tiến hành có tổ chức, luôn luôn tác động trực tiếp cóhệ thống đến sự hình thành và phát triển toàn diện của nhân cách. Thông qua giáo dục nhà trường, mỗi cá nhân được bồi dưỡng phẩn chất đạo đức, kiến thức khoa học, kỹ năng thực hành cần thiết, tương ứng với yêu cầu của các bậc học, cấp học phù hợp với trình độ phát triển của xã hội trong từng giai đoạn.

– So với gia đình, nhà trường là một môi trường giáo dục rộng lớn hơn, phong phú, hấp dẫn hơn đối với thế hệ trẻ. Trong nhà trường, học sinh được giao lưu với bạn bè cùng lứa tuổi ở địa phuơng, cộng đồng, được tham gia vào nhiều hoạt động mang tính xã hội, giúp cho quá trình xã hội hoá cá nhân phong phú, toàn diện hơn.

– Nhà trường là một thiết chế xã hội chuyên biệt thực hiện chức năng cơ bản là tái sản xuất sức lao động, phát triển nhân cách theo hướng duy trì, phát triển xã hội. Nhà trường có chức năng hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ thông qua hoạt động dạy học, giáo dục. Tri thức trong nhà trường là những kinh nghiệm của nhân loại đã được chọn lọc và tích luỹ. Nhà trường là tổ chức chuyên biệt có chức năng truyền thụ toàn bộ kinh nghiệm lịch sử của nhân loại cho thế hệ trẻ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi nhằm hình thành và phát triển mô hình nhân cách lí tưởng của xã hội đặt ra.

– Giáo dục nhà trường có sự thống nhất về mục đích, mục tiêu cụ thể, được thực hiện bởi đội ngũ các nhà sư phạm được đào tạo và bồi dưỡng chu đáo, tiến hành giáo dục theo một chương trình, nội dung, phương pháp sư phạm nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách toàn diện, hướng tới sự thành đạt của con người.

– Ngày nay, giáo dục nhà trường luôn gắn liền với môi trường sống và môi trường tụ nhiên, với các cơ sở sản xuất nhằm phát huy nội lực, lôi cuốn sự tham gia của các lực lượng xã hội vào giáo dục học đường, mặt khác giúp cho nội dung giáo dục gần với đời sống sản xuất xã hội. Nhà trường có chức năng chuyển giao văn hóa giúp cho mỗi học sinh hội nhập với cộng đồng và trở thành chủ nhân chuyển giao nền văn hoá cho thế hệ sau, nhằm duy trì bản sắc vân hóa của dân tộc. Ngày nay, mỗi cá nhân không chỉ tiếp thu tri thức từ nhà trường mà còn tiếp nhận thông tin qua các kênh như sách, báo, mạng Internet…

– Giáo dục nhà trường phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và xã hội thì mới đạt được mục tiêu chung về giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ. Điều quan trọng nhất là phải có sự thống nhất về định hướng giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội.

b.2. Môi trường gia đình

Ở lứa tuổi này, địa vị của các em ở trong gia đình đã thay đổi, các em được gia đình thừa nhận như là một thanh viên tích cực của gia đình, được cha mẹ, anh chị giao cho những nhiệm vụ cụ thể như chăm sóc các em khi cha mẹ đi vắng, nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa, chăn nuôi gia súc… Ở các gia đình neo đơn, các em đã phải tham gia lao động thực sự để góp phần nâng cao thu nhập của gia đình. Các em đã ý thức được các nhiệm vụ đó và thực hiện tích cực.

1

 


Gia đình là một đơn vị xã hội hình thức tổ chức quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân, dựa trên hôn nhân và quan hệ huyết thống, tức là quan hệ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em và những người thân khác cùng chung sống và có kinh tế chung.

Gia đình là môi trường giáo dục đầu tiên và là môi trường giáo dục suốt đời đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người. Gia đình giữ vị chí quan trọng và có ý nghĩa lớn lao đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Đó là môi trường gắn bó trong suốt cuộc đời của mỗi cá nhân. Gia đình là nơi tạo ra mối quan hệ gắn bó ruột thịt huyết thống – một thứ tình cảm khó có thể chia cắt. Do đó, dù có phải trải qua bao biến động về mọi phuơng diện, con người vẫn luôn hướng vềquê hương, gia đình.

b.3. Môi trường xã hội

Giáo dục xã hội là hoạt động của các tổ chức, các nhóm xã hội cóchức năng giáo dục theo quy định của pháp luật hoặc các chương trình giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng. Giáo dục xã hội tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách thường qua hai hình thúc: tự phát và tự giác. Những ảnh hưởng tự phát bao gồm các yếu tố tích cực và tiêu cực của đời sổng xã hội vô cùng phức tạp do cá nhân tự lựa chọn theo nhu cầu, hứng thú, trình độ tự giáo dục của mình. Những ảnh huởng tự giác là những tổ hợp tác động trực tiếp hay gián tiếp có hướng đích, có nội dung, phương pháp bằng nhiều hình thức của các tổ chức, cơ quan, đoàn thể xã hội như y tế, thể thao, nghệ thuât, Hội Ngựời cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ… đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Môi trường xã hội có ảnh huởng rất mạnh mẽ đến cuộc sống của mọi cá nhân.

Giáo dục của xã hội phải kết hợp chặt chẽ với giáo dục gia đình và nhà trường, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo con người theo định hướng cửa Đảng và Nhà nước. Để phát huy tính tích cực của giáo dục xã hội, các tổ chức, cơ quan đoàn thể xã hội trước hết phải thực hiện chức năng cơ bản, chủ yếu của mình, góp phần làm cho môi trường xãhội trong sạch, đời sống vật chất tinh phần phong phú, lành mạnh, hạn chế tác động tiêu cực đến đời sống của mọi cá nhân, nhất là đổi với thế hệ trẻ.

c. Một số biện pháp xây dựng môi trường học tập cho học sinh THPT

Phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục học sinh:

Việc liên kết, phối hợp giữa môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội nhằm thực hiện mục đích phát triển nhân cách công dân được coi là một nguyên tắc quan trọng. Việc liên kết, phối hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục nhằm đảm bảo sự thống nhất về nhận thức cũng như cách thức hành động để hiện thực hóa mục tiêu quá trình phát triển nhân cách; tránh sự tách rời, mâu thuẫn, vô hiệu hoá lẫn nhau gây nên tâm trạng nghi ngờ, hoang mang, dao động đối với cá nhân trong việc lựa chọn, tiếp thu các giá trị tốt đẹp.

Gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội liên kết, phối hợp thống nhất mục đích, mục tiêu giáo dục thể hiện ở những nội dung cơ bản nhằm phát triển toàn diện các mặt đức, trí, thể, mĩ, lao động… Mỗi môi trường đều có một ưu thế trong việc thực hiện các nội dung giáo dục. Gia đình có ưu thế đối với việc giáo dục định hướng nghề nghiệp, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thói quen lao động chân tay, quan hệ ứng xử… Nhà trường có ưu thế trong việc giáo dục toàn diện, đặc biệt là tri thức văn hoá; các chuẩn mực đạo đức, ý thức công dân… bằng các phương pháp, phương tiện hiện đại nhằm thúc đẩy nhanh quá trình phát triển nhân cách. Các đoàn thể xã hội bằng các hình thúc tổ chức hoạt động xã hội ngoài giờ lên lớp giúp các em mơ rộng kiến thúc, gắn tri thức với thực tiễn, chủ trương, chính sách chung của Nhà nước, của địa phương về các lĩnh vực trong đời sống xã hội.

1

 


Liên kết, phối hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội nhằm thục hiện những nội dung ch yếu sau:

Thống nhất mục đích, kế hoạch chăm sóc, giáo dục học sinh của tập thể sư phạm nhà trường với phụ huynh, với các đoàn thể, cơ sở sản xuất, các cơ quan văn hoá, giáo dục ngoài nhà trường.

II/ Modul 17: Tìm kiếm, khai thác, xử lí thông tin phục vụ bài giảng

1/ Nội dung nghiên cứu, học tập, bồi dưỡng

  Những thông tin cơ bản phục vụ bài giảng

Các bước cơ bản trong thực hiện phương pháp tìm kiếm thông tin phục vụ bài giảng

Khai thác, xử lí thông tin phục vụ bài giảng

2/ Kết quả học tập, tiếp thu cho bản thân và công việc:

A. NHỮNG THÔNG TIN CƠ BẢN

1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Thông tin

Thông tin là một khái niệm trừu tượng mô tả các yếu tố đem lại hiểu biết, nhận thức cho con người cũng như các sinh vật khác. Thông tin tồn tại khách quan, có thể được tạo ra, truyền đi, lưu trữ, chọn lọc. Thông tin cũng có thể bị sai lạc, méo mó do nhiều nguyên nhân khác nhau: bị xuyên tạc, cắt xén… Những yếu tố gây sự sai lệch thông tin gọi là các yếu tố nhiễu.

Khi tiếp nhận được thông tin, con người thường phải xử lý nó để tạo ra những thông tin mới, có ích hơn, từ đó có những phản ứng nhất định. Trong lĩnh vực quản lý, các thông tin mới là các quyết định quản lý.

 Với quan niệm của công nghệ thông tin, thông tin là những tín hiệu, ký hiệu mang lại hiểu biết, nhận thức của con người. Các tín hiệu thể hiện thông tin vô cùng đa dạng: âm thanh, hình ảnh, cử chỉ hành động, chữ viết, các tín hiệu điện từ…. Thông tin được ghi lại trên nhiều phương tiện khác nhau như giấy, da, đá, bảng tin, băng hình, băng ghi âm, đĩa từ, đĩa quang… Trong công nghệ thông tin, thông tin thường được ghi lên đĩa từ, đĩa quang, chíp điện tử (là tổ hợp các linh kiện điện tử)… Thông tin muốn được xử lý trên máy tính phải được mã hoá theo những cách thức thống nhất để máy tính có thể đọc và xử lý được. Sau khi xử lý, thông tin được giải mã trở thành các tín hiệu mà con người có thể nhận thức được.

1

 


1.1.2. Công nghệ thông tin và truyền thông

 Công nghệ thông tin, viết tắt là CNTT (Information Technology - viết tắt là IT) là một ngành ứng dụng công nghệ vào quản lý xã hội, xử lý thông tin. Có thể hiểu CNTT là ngành sử dụng máy tính và các phương tiện truyền thông để thu tập, truyền tải, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền thông tin. Hiện nay, có nhiều cách hiểu về CNTT. Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong Nghị quyết 49/CP ký ngày 04/08/1993 về phát triển CNTT của Chính phủ Việt Nam như sau: “Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại – chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông – nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”.

Truyền thông là sự luân chuyển thông tin và hiểu biết từ người này sang người khác bằng các ký hiệu, tín hiệu có ý nghĩa thông qua các kênh truyền tin.

Công nghệ thông tin và truyền thông có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển xã hội nói chung và giáo dục nói riêng. Công nghệ thông tin và truyền thông đã và đang tạo ra một cuộc cách mạng thực sự  trong kinh tế xã hội nói chung và giáo dục nói riêng.

1.2. Vai trò của công nghệ thông tin trong sự phát triển xã hội

1.2.1. Vai trò đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

 CNTT có vai trong quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

 - Công nghệ thông tin và truyền thông làm cho kho tri thức của nhân loại giàu lên nhanh chóng, con người tiếp cận với lượng tri thức đó nhanh hơn, dễ hơn, có tính chọn lọc hơn. Điều đó đẩy mạnh sự phát triển của các ngành khoa học, công nghệ hiện đại.

 - Công nghệ thông tin làm cho năng suất lao động tăng lên do có điều kiện thuận lợi để kế thừa và cải tiến một số công nghệ sẵn có hoặc nghiên cứu phát minh công nghệ mới.

1.2.2. Vai trò đối với phát triển kinh tế, xã hội

 Công nghệ thông tin và truyền thông đã phát triển một cách nhanh chóng, đã có những tác động hết sức to lớn đối với sự phát triển của xã hội.

 Công nghệ thông tin và truyền thông đã làm cho cơ cấu nghề nghiệp trong xã hội biến đổi rất nhanh. Một số ngành nghề truyền thống đã bị vô hiệu hóa, bị xoá bỏ, nhiều ngành nghề mới, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ được hình thành và phát triển.

1

 


 Trong cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, máy móc thay thế lao động cơ bắp của con người; còn ngày nay máy tính giúp con người trong lao động trí óc, nhân lên gấp bội sức mạnh trí tuệ, sức sáng tạo của con người. Thông tin, tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất của việc tạo ra của cải, việc làm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tri thức trở thành hình thức cơ bản nhất của vốn, quan trọng hơn cả tài nguyên, sức lao động. Lực lượng sản xuất xã hội loài người từ dựa vào tài nguyên thiên nhiên đang chuyển dần sang dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người.

 Sức mạnh của nề kinh tế tri thức dựa vào ba loại hình công nghệ, được xem như là ba thành quả điển hình:

 - Công nghệ sinh học.

 - Công nghệ nano,

 - Công nghệ tin học, thông tin (ICT).

 Một quốc gia muốn chuyển sang nền kinh tế tri thức, trước tiên cần hình thành 4 trụ cột quan trọng là:

 - Môi trường kinh tế và thể chế xã hội.

- Giáo dục cơ sở thông tin (ICT) hiện đại.

- Hạ tầng cơ sở thông tin hiện đại.

- Hệ thống sáng tạo có hiệu quả.

Vì vậy, để xây dựng nền kinh tế tri thức, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

 - Phải đổi mới cơ chế và chính sách, tạo lập một khuôn khổ pháp lý mới phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ chế chính sách phải thực sự khuyến khích và buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và thúc đẩy nhanh chóng sự ra đời các doanh nghiệp mới, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm mới, công nghệ mới. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, chống độc quyền.

 - Phải chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Tập trung đầu tư phát triển giáo dục, cải cách giáo dục. Tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, doanh nhân…

 - Tập trung tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học và công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước sáng tạo công nghệ đặc thù của đất nước, xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến của Việt Nam.

 - Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghệ thông tin là chìa khóa để đi vào kinh tế tri thức. Muốn rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách với các nước, phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin.

 Như vậy, xã hội đã và đang chuyển sang nền kinh tế tri thức và công nghệ thông tin và truyền thông đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế đó.

1

 


 Một xu thế khác của sự phát triển xã hội cũng chịu tác động mạnh mẽ của CNTT và truyền thông là xu thế toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v… trên quy mô toàn cầu.

 Khía cạnh kinh tế: Toàn cầu hóa hầu như được dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do thương mại nói riêng. Các tổ chức quốc gia sẽ mất dần quyền lực. Quyền lực này sẽ chuyển về tay các tổ chức đa phương như WTO. Các tổ chức này sẽ mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại và thông qua các hiệp ước đa phương hạ thấp hoặc nâng cao hàng rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế.

 Khía cạnh văn hóa: Toàn cầu hóa sẽ tạo ra những hiệu quả trái ngược ở mức độ cá nhân hay dân tộc. Một sự đa dạng cho cá nhân do họ được tiếp xúc với các nền văn hóa và văn minh khác nhau. Toàn cầu hóa giúp con người hiểu hơn về thế giới và thách thức ở quy mô toàn cầu qua sự bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ thông hóa hoạt động du lịch, việc tiếp cận dễ dàng hơn với giáo dục và văn hóa. Một sự đồng nhất đối với các dân tộc qua ảnh hưởng của các dòng chảy thương mai và văn hóa mạnh.

 Công nghệ thông tin và truyền thông làm tăng cường các mối quan hệ giao tiếp và trao đổi văn hóa trong các cộng đồng dân tộc và trên toàn cầu. Chính điều đó đã làm cho tính “toàn cầu hóa” về văn hóa diễn ra hết sức nhanh chóng. Mọi người trên thế giới có thể nhanh chóng nhận được những thông tin về những thành tựu văn hóa, nghệ thuật, khoa học, thể thao, có thể làm quen với những trình diễn nghệ thuật, văn hóa thể thao tinh hoa từ mọi miền, của mọi cộng đồng dân tộc trên toàn thế giới. Do đó các dân tộc có nhiều cơ hội hiểu biết nhau hơn, thông cảm với nhau hơn để cùng chung sống với nhau.

 Công nghệ thông tin và truyền thông thúc đẩy quá trình dân chủ hóa xã hội. Mọi người dân đều có thể dễ dàng truy cập thông tin, thông tin đến với mọi người, không thể bưng bít thông tin. Công nghệ thông tin và truyền thông cũng giúp Nhà nước, các cơ quan quản lý có khả năng nhanh chóng tiếp cận và xử lý thông tin để đưa ra các quyết định hợp lý. Tất cả những yếu tố đó tạo điều kiện để tăng cường tính dân chủ của hệ thống chính trị xã hội.

 Bên cạnh những tác động to lớn do CNTT mang lại theo hướng tốt đẹp cho nhân loại, nó cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội và nhiều thách thức gay gắt: việc đảm bảo tính riêng tư của các dữ liệu của cá nhân khi giao lưu trên mạng, bảo vệ những bí mật của tổ chức, của quốc gia, những trào lưu văn hoá lệch lạc, phản cảm…

1.2.3. Vai trò đối với việc quản lý xã hội

 Xã hội càng phát triển các mối quan hệ ngày càng nhiều, độ phức tạp càng lớn làm cho việc quản lý xã hội ngày càng trở nên khó khăn hơn. Sự ra đời, phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo nên một phương thức quản lý xã hội mới, hiện đại là quản lý bằng Chính phủ điện tử.

 Chính phủ điện tử (e-Government) là tên gọi của một chính phủ mà mọi hoạt động của nhà nước “điện tử hóa”, “mạng hóa”. Tuy nhiên, chính phủ điện tử không đơn thuần là máy tính, mạng Internet; mà là sự đổi mới toàn diện các quan hệ (đặc biệt là quan hệ giữa chính quyền và công dân), các nguồn lực, các quy trình, phương thức hoạt động và bản thân nội dung các hoạt động của chính quyền trung ương và địa phương và cả các quan niệm về các hoạt động đó.

1

 


 Chính phủ điện tử là ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) để các cơ quan của chính quyền từ trung ương và địa phương đổi mới, làm việc có hiệu lực, hiệu quả và minh bạch hơn; cung cấp thông tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân thực hiện quyền dân chủ và tham gia quản lý Nhà nước.

Các đặc trưng của Chính phủ điện tử (CPĐT):

 - CPĐT đã đưa chính phủ tới gần dân và đưa dân tới gần chính phủ.

 - CPĐT làm minh bạch hóa hoạt động của chính phủ

 - CPĐT giúp chính phủ hoạt động có hiệu quả trong quản lý và phục vụ dân (cải cách hành chính và nâng cao chất lượng dịch vụ công)

 Mục tiêu Chính phủ điện tử:

 - Tạo môi trường kinh doanh tốt hơn;

 - Khách hàng trực tuyến, không phải xếp hàng;

 - Tăng cường sự điều hành có hiệu quả của chính phủ và sự tham gia rộng rãi của người dân;

 - Nâng cao năng suất và tính hiệu quả của các cơ quan chính phủ;

 - Nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cộng đồng vùng sâu vùng xa.

 Lợi ích Chính phủ điện tử

 Lợi ích chính phủ Điện tử là đáp ứng mọi nhu cầu của công dân bằng việc nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy chính quyền từ trung ương tới cơ sở như quản lý nhân sự, quy trình tác nghiệp, v.v…Chính phủ Điện tử đem lại những hiệu quả to lớn trong quản lý: cung cấp dịch vụ một cách hiệu quả và kịp thời cho người dân, doanh nghiệp, các cơ quan và nhân viên chính phủ. Đối với người dân và doanh nghiệp, chính phủ điện tử là sự đơn giản hóa các thủ tục và tăng tính hiệu quả của quá trình công việc. Đối với chính phủ, chính phủ điện tử hỗ trợ quan hệ giữa các cơ quan của chính quyền nhằm đảm bảo đưa ra các quyết định một cách chính xác và kịp thời.

 Các dạng giao dịch của chính phủ điện tử

 Chính phủ với Công dân (Government to Citizen: G2C);

Chính phủ với Doanh nghiệp (Government to Business: G2B);

Chính phủ với người lao động (Government To Employee: G2E);

Chính phủ với Chính phủ (Government To Government: G2G);

1.3. Tác động của CNTT và truyền thông đối với giáo dục

1.3.1. Thay đổi mô hình giáo dục

Theo cách tiếp cận thông tin, tại “Hội nghị Paris về GDĐH trong thế kỷ 21” do UNESCO tổ chức 10/1998 người ta có tổng kết 3 mô hình giáo dục:

1

 


Mô hình

Trung tâm

Vai trò người học

Công nghệ cơ bản

Truyền thống

Người dạy

Thụ động

Bảng/TV/Radio

Thông tin

Người học

Chủ động

PC

Tri thức

Nhóm

Thích nghi

PC + mạng

 Trong các mô hình đã nêu, mô hình “tri thức” là mô hình giáo dục hiện đại nhất, hình thành khi xuất hiện thành tựu mới quan trọng nhất của CNTT và truyền thông là mạng Internet. Mô hình mới này đã tạo nên nhiều sự thay đổi trong giáo dục.

1.3.2. Thay đổi chất lượng giáo dục

 CNTT được ứng dụng trong giáo dục đã làm thay đổi lớn về chất lượng giáo dục do

 - CNTT ứng dụng trong quản lý giúp các nhà quản lý nắm bắt trạng thái của hệ thống một cách nhanh chóng, chính xác, đáng tin cậy. Thêm nữa, các hệ hỗ trợ quyết định trợ giúp thêm cho các nhà quản lý kịp thời ra được các quyết định quản lý chính xác, phù hợp.

 - CNTT ứng dụng trong dạy học giúp cho nhà giáo nâng cao chất lượng giảng dạy, người học nắm bài tốt hơn, Ngoài ra, internet cũng trợ giúp cho người học trong việc tra cứu, tìm hiểu, cập nhật tri thức và tự kiểm tra bản thân, làm cho chất lượng nâng cao thêm.

 - CNTT ứng dụng trong định đánh giá chất lượng giúp cho công tác kiểm định được toàn diện, kết quả kiểm định được khách quan và công khai. Điều này làm nên động lực để các trường, các tổ chức có kế hoạch hoàn thiện nhà trường để đạt đến các chuẩn đề ra.

 Do tầm quan trọng của CNTT trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, Chỉnh phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo rất quan tâm chỉ đạo việc ứng dụng CNTT trong trường học từ rất sớm. Sau đây là một số định hướng, chỉ đạo quan trọng

 Ngày 10/04/2007, Chính phủ đã có Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Sau đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản gửi các cơ sở giáo dục và đào tạo yêu cầu thực hiện tốt nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, giai đoạn 2008 – 2012, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục.

 Từ năm học 2007 – 2008, căn cứ nhiệm vụ năm học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học về CNTT. Đặc biệt năm học 2008 – 2009 được Bộ GD&ĐT lấy làm năm học Công nghệ thông tin. Một trong những nhiệm vụ về CNTT năm học 2011 – 2012 là “Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT trong trường phổ thông nhằm đổi mới phương pháp dạy học theo hướng giáo viên tự tích hợp CNTT vào từng môn học thay vì học trong môn tin học. Giáo viên các bộ môn chủ động tự soạn và tự chọn tài liệu và phần mềm (mã nguồn mở) để giảng dạy ứng dụng CNTT”.

 Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong những năm qua các sở giáo dục đã chỉ đạo các trường ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo

1.3.3. Thay đổi hình thức đào tạo

1

 


 Công nghệ thông tin và truyền thông phát triển đã tạo nên những thay đổi lớn về giáo dục và đào tạo. Nhiều hình thức đào tạo mới đã xuất hiện

 * Đào tạo từ xa: Hiện nay, có nhiều thuật ngữ để mô tả giáo dục – đào tạo từ xa như: Giáo dục mở, giáo dục từ xa, dạy từ xa, học từ xa đào tạo từ xa hoặc giáo dục ở xa… theo nhiều học giả trên thế giới thì “Giáo dục từ xa là một quá trình giáo dục – đào tạo mà trong đó phần lớn hoặc toàn bộ quá trình giáo dục – đào tạo có sự tách biệt giữa người dạy và người học về mặt không gian hoặc (và) thời gian”.

 Mặc dù chưa có định nghĩa chính xác về giáo dục từ xa. Tuy nhiên một cách tổng quát, giáo dục từ xa là hoạt động dạy học diễn ra một cách gián tiếp theo phương pháp dạy và phương pháp học từ xa. Giáo dục từ xa được hiểu bao hàm các yếu tố dưới đây:

 - Người dạy và người học ở một khoảng cách xa tức là có sự ngăn cách về mặt không gian: Khoảng cách này là tương đối, có thể là cùng trường học nhưng khác phòng học hoặc khác nhau về địa lý, có thể vài kilomet hoặc hàng ngàn kilomet.

 - Nội dung dạy học trong quá trình dạy học được truyền thụ, phân phối tới cho người học chủ yếu thông qua các hình thức thể hiện gián tiếp như văn bản in, âm thanh, hình ảnh hoặc số liệu thông qua máy tính.

 - Sự liên hệ, tương tác giữa người học (nếu có) trong quá trình dạy học có thể được thực hiện tức thời hoặc trễ sau một khoảng thời gian nào đó (có sự ngăn cách về mặt thời gian).

 Tùy theo phương thức phân phối các nội dung dạy học và sự liên hệ, tương tác giữa người dạy và người học mà có các hình thức tổ chức, thực hiện giáo dục từ xa khác nhau. Về cơ bản người ta phân loại giáo dục từ xa dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa người dạy và người học trong quá trình dạy học, đó là giáo dục từ xa tương tác và giáo dục từ xa không tương tác.

 Công nghệ sử dụng cho giáo dục từ xa là rất đa dạng và phong phú. Trên cơ sở các phương thức giáo dục từ xa, có thể hiểu một cách tổng quát về giáo dục từ xa như sau: “Là một phương thức giáo dục – đào tạo dựa trên cơ sở của kỹ thuật nghe nhìn, công nghệ viễn thông và công nghệ thông tin. Giáo dục từ xa lấy tự học là chủ yếu, có sự hỗ trợ tích cực của giáo trình, công nghệ thông tin và viễn thông; có thể đồng thời có sự hướng dẫn và hỗ trợ của giảng viên của cơ sở đào tạo”.

 * Đào tạo trực tuyến: Học tập trực tuyến (Online Learning) là một loại hình học tập sử dụng mạng máy tính và internet.

Trong loại hình học tập truyền thống (hay còn gọi là học tập mặt đối mặt) học sinh trực tiếp nhận thông tin từ giáo viên. Một yếu tố rất quan trọng trong quá trình dạy và học là các giao tiếp hai chiều giữa Thầy – Trò, Trò – Trò với cách thức học sinh tự học bằng sách vở, băng tiếng, băng hình, phát thanh, truyền hình… học viên thiếu hẳn yếu tố giao tiếp hai chiều đó.

 Học tập trực tuyến ra đời nhằm tạo ra yếu tố giao tiếp hai chiều giữa học sinh với giáo viên “ảo” và trao đổi với các đồng học “ảo” qua mạng máy tính hoặc internet. Học tập trực tuyến còn có tác dụng kích thích ý thức tự học của học sinh, hỗ trợ học sinh tiếp cận với nguồn thông tin phong phú hơn rất nhiều so với bài giảng trên lớp của giáo viên.

1

 

nguon VI OLET