Thể loại Giáo án bài giảng Khác (Tin học)
Số trang 1
Ngày tạo 11/23/2016 9:09:40 PM +00:00
Loại tệp doc
Kích thước
Tên tệp 117 cau chuyen ke bac ho doc
Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
1
117 Chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
*******
Chuyện thứ 1:
Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Véc-xây.
Tháng 6 năm 1919, nghe tin các đoàn đại biểu mười mấy nước Đồng minh chiến thắng họp
ở Véc-xây cách thủ đô Pa-ri 14 ki-lô-mét, Nguyễn Tất Thành bàn với nhà yêu nước Phan Châu
Trinh và luật sư, tiến sĩ Phan Văn Trường viết bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi Hội
nghị Véc-xây. Nhà yêu nước họ Phan trịnh trọng nói:
- Bảy điều yêu sách mà anh Thành nêu ra, theo tôi thật là xác đáng và đúng như bọn mình
thường trao đổi với nhau. Chú Trường xem có nên thêm điều gì không?
- Tôi thấy thế là tốt... Thử xem còn vấn đề gì về quyền của nhân dân ta cần đòi... - Văn
Trường nói và gõ nhẹ vào trán mình theo thói quen của ông khi cần suy tính một điều gì.
- Thưa hai bác - Tất Thành lên tiếng - Hôm trước cháu phác thảo ra 7 điều yêu sách đưa
hai bác xem, nhưng đêm hôm qua cháu mới nảy thêm một ý. Cháu thấy rằng ở Đông Dương,
bọn quan lại chỉ dựa vào các sắc lệnh của tên toàn quyền để cai trị dân ta mà không hề có luật.
Cháu muốn đưa thêm một điều yêu sách nữa: "Thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật pháp".
- Đúng! Đúng! Luật sư họ Phan sôi nổi hưởng ứng. Muốn cho dân ta có tự do thì phải đòi
họ cai trị theo luật pháp!
- Tôi cũng tán đồng! Phan Châu Trinh nói như kết luận buổi gặp mặt. Bây giờ ta làm thế
nào để chuyển bản Yêu sách tới Hội nghị Véc-xây đây?
Tất Thành:
- Thưa bác, cháu nghĩ rằng phải nhờ bác Phan Văn Trường viết ngay ra bằng tiếng Pháp thì
mới kịp.
Hai ngày sau, Nguyễn Tất Thành đã ngồi bên luật sư Phan Văn Trường, trước bản "Yêu
sách của nhân dân Việt Nam" vừa thảo xong bằng chữ Pháp.
- Chúng ta sẽ đứng tên dưới bản yêu sách này như thế nào đây? Bác đứng tên nhé. Nguyễn
Tất Thành nêu ý kiến.
- Không! Phan Văn Trường đáp - bản Yêu sách này tuy là tôi chấp bút viết ra bằng tiếng
Pháp. Nhưng tôi phải viết chỉ vì anh chưa thông thạo Pháp văn mà thôi, chứ sáng kiến lớn lao
này của anh, và hầu hết ý kiến nêu ra trong bản Yêu sách cũng là của anh.
- Thưa bác, sáng kiến của cháu cũng chỉ là phản ánh nguyện vọng chung của những người
yêu nước chứ có phải của riêng cháu đâu. Bác là một nhân vật có danh tiếng, bà con Việt kiều
trên đất Pháp đều biết bác là một luật sư yêu nước dám bênh vực công lý, che chở cho bà con.
Bác đứng tên cho bản yêu sách này thì giá trị của nó càng cao, ảnh hưởng của nó càng rộng.
- Không! Không thể được! Tôi tuy có chút danh vọng hơn anh ngày nay, nhưng cái tâm,
cái chí của anh còn lớn hơn tôi nhiều. Vả lại về nguyên tắc, người trí thức không được phép lấy
công người khác làm công của mình: "Cái gì của Xê-da thì phải trả lại cho Xê-da". Đó mới là lẽ
phải. Chẳng những tôi không thể đứng tên, mà bác Hy Mã Phan Châu trinh cũng không nên
đứng tên.
Cuộc trao đổi giữa hai nhà yêu nước đi tới kết luận: dùng một cái tên gì tiêu biểu cho
nguyện vọng chung của nhân dân, nhưng phải là tên một cá nhân thì tính chất pháp nhân của văn Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
2
bản mới có giá trị. Cuối cùng anh Nguyễn quyết định tự mình đứng mũi chịu sào với cái tên
chung cho tấm lòng của mọi người. Anh ký:
Thay mặt những người yêu nước Việt Nam
Nguyễn Ái Quốc
Ngay buổi chiều hôm ấy, sau khi bản Yêu sách được gửi đi, anh Nguyễn rời khỏi nhà số 6
đường Vi-la đê Gô-bơ-lanh, nơi anh vẫn ở với luật sư Phan Văn Trường. Anh sống bí mật, đề
phòng sự truy lùng ráo riết của bọn mật thám Bộ Thuộc địa Pháp.
*
* *
Vào buổi sáng sớm có người đến bấm chuông căn nhà số 6, phố Đô-bi-nhi. Đây là nhà của
Giuyn Căm-bông, đại sứ cũ của Pháp ở Đức, hiện là thành viên của đoàn đại biểu Pháp đi dự
Hội nghị Véc-xây. Giơ-nơ-vi-e-vơ Ta-bu-i, cô cháu gái trẻ của Căm-bông ra mở cửa. Sau này cô
là một nhà báo nổi tiếng, nhưng lúc bấy giờ cô là thư ký của cậu cô. Người bấm chuông là một
thanh niên châu Á, mảnh khảnh, có khuôn mặt cởi mở, dễ mến, đôi mắt to, sáng long lanh. Anh
lịch sự chào cô và nói bằng thứ tiếng Pháp không sõi:
- Tôi muốn trao cho ngài đại sứ Căm-bông một văn kiện.
Giơ-nơ-vi-e-vơ mời khách đến sớm vào nhà rồi ra hiệu cho khách ngồi xuống cạnh chiếc
bàn dài chạm trổ theo kiểu đế chế. Chiếc bàn này hiện nay vẫn kê trong phòng khách gia đình
Ta-bu-i. Cô gái hỏi người thanh niên là ai?
- Thưa cô, tôi là Nguyễn Ái Quốc, tôi muốn gặp ngài Căm-bông.
Chàng thanh niên lấy ra một cuốn giấy buộc bằng dây mảnh. Anh mở ra và trao cho cô gái.
- Tôi đến đây để trao cho ngài đại sứ "bản trần tình” của nhân dân Đông Dương.
Có thể thấy ngay là những tờ giấy trong cuộn giấy viết bằng một thứ chữ rất đẹp. Tờ đầu
tiên là bức thư gửi cho chủ nhà:
Thưa ngài đại sứ Căm-bông, đại diện toàn quyền của nước Pháp tại Hội nghị Véc-xây. Tôi
là người đại điện cho nhân dân Đông Dương. Chúng tôi là một dân tộc chậm phát triển, chúng
tôi đã được biết thế nào là nền văn minh của nước Ngài...".
Tài liệu mà người thanh niên châu Á mang đến có tên là “Bản Yêu sách của nhân dân An
Nam ". Bản Yêu sách viết: "Trong khi chờ đợi nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển
vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thực
sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông - Pháp, xin trình bày với các quý Chính
phủ Đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đáng kính nói riêng những yêu sách khiêm
tốn sau đây:
1- Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị.
2- Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền
hưởng những đảm bảo bề mặt pháp luật như người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc
biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam;
3- Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4- Tự do lập hội và hội họp;
5- Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
3
6- Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho
người bản xứ;
7- Thay thế chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8- Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện
Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.
Vài ngày sau, các đoàn đại biểu khác tham gia Hội nghị và nhiều nghị sĩ Pháp cũng nhận
được bản yêu sách tương tự như vậy. Kèm theo bản yêu sách có bức thư ngắn:
"Thưa ngài! Nhân dịp chiến thắng của Đồng minh, chúng tôi xin mạn phép gửi đến Ngài
kèm theo đây bản ghi những yêu sách của nhân dân An Nam. Tin tưởng ở sự độ lượng cao cả
của Ngài, chúng tôi mong Ngài ủng hộ bản yêu sách này trước những người có thẩm quyền.
Thay mặt nhóm những người An Nam yêu nước: Nguyễn ái Quốc".
Người ta nhiều lần bắt gặp người thanh niên Việt Nam kiên trì này với tập giấy tờ cặp dưới
nách tại các hành lang ồn ào, mù mịt khói thuốc của các ban biên tập báo ở Pa-ri, trong các gian
phòng chật chội do các công đoàn và đảng Xã hội thuê để tổ chức các cuộc họp và mít tinh.
Lu-i Ác-nu, Trưởng ban Đông Dương của Sở Mật thám Pháp, sau này là Chánh Mật thám
Pháp ở Đông Dương, nhún vai khi nghe báo cáo về hành động của một người nào đó tên là
Nguyễn Ái Quốc và về nội dung một "tài liệu chống Pháp" đang được người đó phân phát khắp
nơi. Do nghề nghiệp đòi hỏi, Ác-nu hầu như biết rất rõ mọi người An Nam khả nghi sống ở Pa-
ri, được báo cáo tỉ mỉ về bước đi của "những kẻ chủ mưu gây bất an" từ Đông Dương sang. Một
trong những người đó là Phan Châu Trinh, mở một hiệu ảnh và thực tế đã ngưng hoạt động
chính trị. Vả lại, hành động “khiêu khích” như vậy vốn không phải là Phan Châu Trinh, vì ông
lúc nào cũng có thái độ kính nể nước Pháp. Một người khác là luật sư Phan Văn Trường, cũng
sống ở Pa-ri, được coi là nhà mác-xít, nhưng chỉ là người dịch sách, báo chính trị ra tiếng Việt
và không bao giờ tham gia làm những việc như vậy. Chỉ còn một người duy nhất trong số những
nhân vật quen biết cũ của Sở Mật thám dám cả gan làm việc này là Phan Bội Châu. Nhưng Ác-
nu biết chắc chắn Phan Bội Châu đang ở một nơi nào đó tại miền Nam Trung Quốc, hơn nữa,
mới đây ông ta có cho đăng một bài báo, lời lẽ rất ôn hoà có lợi cho chủ trương hợp tác Pháp -
Việt.
Cả Ác-nu - kẻ có con mắt cú vọ, nhòm ngó khắp nơi, thậm chí cả những người bạn gần gũi
của người yêu nước trẻ tuổi đã cả gan cất lên tiếng nói bảo vệ nhân dân bị áp bức của mình ngay
giữa trái tim của bọn đế quốc Pháp cũng không biết được và cũng không thể ngờ vào lúc đó
rằng, Nguyễn Ái Quốc - tác giả bản Yêu sách, anh Văn Ba, người phụ bếp trên tàu biển, người
con trai quan Phó bảng duy nhất ở làng Sen, cậu bé ham hiểu biết Nguyễn Tất Thành - cũng chỉ
là một người mà thôi.
Kể chuyện Bác Hồ.
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006, t. 2, tr. 19.
*
* *
Chuyện thứ 2:
"Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin"
Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
4
Ngay sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tôi làm thuê ở Pa-ri, khi thì làm cho một cửa
hàng phóng đại ảnh, khi thì vẽ “đồ cổ mỹ nghệ Trung Hoa" (do một xưởng của người Pháp làm
ra!). Hồi đó, tôi thường rải truyền đơn tố cáo tội ác bọn thực dân Pháp ở Việt Nam.
Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa
hiểu hết tầm quan trọng lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ
đại đã giải phóng đồng bào mình; trước đó, tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lênin viết.
Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng qua là vì các "ông bà" ấy - hồi đó tôi gọi các đồng
chí của tôi như thế - đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn
như đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì, thì tôi chưa hiểu.
Hồi ấy, trong các chi bộ của Đảng Xã hội, người ta bàn cãi sôi nổi về vấn đề có nên ở lại
trong Quốc tế thứ hai, hay là nên tổ chức một Quốc tế thứ hai rưỡi, hoặc tham gia Quốc tế thứ
ba của Lênin? Tôi dự rất đều các cuộc họp một tuần hai hoặc ba lần. Tôi chăm chú nghe những
người phát biểu ý kiến. Lúc đầu, tôi không hiểu được hết. Tại sao người ta bàn cãi hăng như
vậy? Với Quốc tế thứ hai, hoặc thứ hai rưỡi, hay là thứ ba, thì người ta cũng đều làm được cách
mạng cả, sao lại phải cãi nhau? Và còn Quốc tế thứ nhất nữa, người ta đã làm gì với nó rồi?
Điều mà tôi muốn biết hơn cả - và cũng chính là điều mà người ta không thảo luận trong
cuộc họp là: vậy thì cái quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa?
Trong một cuộc họp, tôi đã nêu câu hỏi ấy lên, câu hỏi quan trọng nhất đối với tôi. Có mấy
đồng chí đã trả lời: Đó là Quốc tế thứ ba, chứ không phải Quốc tế thứ hai. Và một đồng chí đã
đưa cho tôi đọc Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo Nhân
đạo.
Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần,
cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn
khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng
mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hởi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ!
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!".
Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
Trước kia, trong các cuộc họp chi bộ, tôi chỉ ngồi nghe người ta nói; tôi cảm thấy người
nào cũng có lý cả, tôi không phân biệt được ai đúng ai sai. Nhưng từ đó tôi cũng xông vào
những cuộc tranh luận. Tôi tham gia thảo luận sôi nổi. Mặc dù chưa biết đủ tiếng Pháp để nói
hết ý nghĩ của mình, tôi vẫn đập mạnh những lời lẽ chống lại Lênin, chống lại Quốc tế thứ ba.
Lý lẽ duy nhất của tôi là: Nếu đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu đồng chí không
bênh vực các dân tộc thuộc địa thì đồng chí làm cái cách mạng gì?
Không chỉ tham gia các cuộc họp của chi bộ mà thôi, tôi còn đến những chi bộ khác để
bênh vực lập trường "của tôi". Ở đây, tôi cần nhắc thêm rằng các đồng chí Mác-xen Ca-sanh,
Vay-ăng Cu-tuya-ri-ê, Mông-mút-xô và nhiều đồng chí khác đã giúp đỡ tôi hiểu biết thêm. Cuối
cùng ở Đại hội thành phố Tua, tôi cùng các đồng chí ấy biểu quyết tán thành tham gia Quốc tế
thứ ba.
Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin
theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý
luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ. Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
5
Ở nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái "cẩm nang" đầy phép
lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay các
giải pháp. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam,
không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi
sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản.
HỒ CHÍ MINH
Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10.
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000
*
* *
Chuyện thứ 3:
Bác Hồ với cụ Phan Châu Trinh.
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành với cái tên là Ba rời Sài Gòn và ngày 15/7/1911 đến
cảng Lơ Ha-vơ-rơ, còn Phan Châu Trinh rời Sài Gòn ngày 1/4/1911 và đến Pháp vào ngày 27/4
cùng năm, ngụ tại Pa-ri. Khoảng cách giữa Lơ Ha-vơ-rơ và Pa-ri - nơi cụ Phan đang sống - chỉ
có hơn 100 cây số, đi lại dễ dàng... Chắc chắn trong dịp này Người đã tranh thủ đến Pa-ri gặp cụ
Phan, làm quen với những người quanh Cụ, và đặc biệt để bàn bạc với Cụ về hướng sống và học
tập. Và có thể không phải chỉ đến một lần...
Có ba bức thư với thủ bút của Tất Thành mà cụ Phan còn giữ được đem về nước năm 1925
và gia đình đã gửi ra Việt Bắc tặng Trung ương trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nay lưu
tại Bảo tàng Hồ Chí Minh... Có lẽ do yêu cầu bảo mật, các thư đều không được ghi ngày tháng
nhưng có thể phán đoán bức thư sau đây đã được viết vào dịp trên. Nguyên văn như sau:
“Hy Mã nghi bá đại nhơn,
Cách đây không tiếp được tôn tín, không hay Bác hành chỉ thế nào và sự thể bên ta thế
nào? Và cháu muốn biết như cháu có thể gặp Bác trước lúc đi hay không, vì cháu rất cần một ít
lời tôn hội, xin Bác trả lời liền cho cháu vì chừng trong tuần lễ cháu sẽ xuống tàu “đi chưa biết
đâu”. Kính chúc Bác, M.Trường và em Dật và các đồng bào yêu hảo”.
Cuồng Điệt: Tất Thành
10.orchard Place
Southampton England
Theo lời thư trên đây thì: Tất Thành biết rõ tình hình cụ Phan đang bị Bộ Thuộc địa ép
phải đi khỏi Pa-ri nên yêu cầu Cụ trả lời ngay để đến gặp chỉ trong vòng một tuần lễ… Do đó có
thể đoán là mặc dù ghi địa chỉ ở Anh nhưng lúc đó Tất Thành không phải ở Anh mà thực ra
đang ở không xa Pa-ri, có thể ở nhà chủ tàu tại Anh A-đơ-ret-xơ (Saint - Adresse), ngoại ô Lơ
Ha-vơ-rơ chỉ cách Pa-ri hơn một trăm cây số. Lời thăm hỏi rất thân tình về mọi người ở quanh
Phan Châu Trinh lúc đó, kể cả luật sư Phan Văn Trường nói lên họ đã gặp gỡ nhau rồi.
Sau thư trên có thế đã có cuộc gặp gỡ giữa cụ Phan Châu Trinh và Tất Thành tại Pa-ri
trước chuyến đi xa bằng tàu biển.
Theo phán đoán thì thời đó nơi dừng chân của Bác Hồ sau các chuyến đi là cảng Lơ Ha-
vơ-rơ. Vì mấy nguyên nhân: đó là nơi dừng lâu nhất của tàu La-tút-sơ Tơ-rê-vin, có nhà của chủ
tàu và nhiều bạn bè quen biết trên tàu có thể làm nơi tá túc; nơi đó rất gần Pa-ri, chỗ ở của cụ Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
6
Phan và những người bạn khác, chỉ 1 đến 2 giờ là có thể đến gặp được; nơi đó có thể lánh sang
đất Anh thuộc chính quyền hoàng gia vốn lúc này không mấy thân thiện với Pháp (như thể hiện
trong năm 1915, Chính phủ Anh không đáp ứng yêu cầu của Pháp soát xét nơi ở của Tất Thành
để tìm các thư phúc đáp của Phan Châu Trinh, hoặc cả sau này, khi Chính phủ Hoàng gia ký
lệnh thả Nguyễn ái Quốc tại Hồng Kông năm 1931...).
Cần khám phá châu Mỹ và nước Mỹ đang thời kỳ phát triển mạnh mẽ, Tất Thành đã lên
làm việc ở một chiếc tàu đi Nam Mỹ và Bắc Mỹ. Anh đã dừng lại ở Niu-yóoc, lên bờ để làm
thêm kiếm sống, viết thư về nước nhờ tìm tin, địa chỉ của cha, và đã gặp đại diện phong trào yêu
nước Triều Tiên tại Mỹ và học tập kinh nghiệm đấu tranh của họ...
Nhưng Tất Thành không ở Mỹ lâu, trong khoảng năm 1913 Người đã trở về Lơ Ha-vơ-rơ,
cùng bàn bạc với cụ Phan và chuyển sang ở Anh, Tất Thành đã gửi bức thư sau cho cụ Phan:
“Hy Mã nghi bá đại nhơn,
Cháu kính chúc Bác, em Dật và ông Trạng, mấy anh em ta ở Pa-ri đều mạnh giỏi. Nay
cháu đã tìm nơi để học tiếng. Mấy bốn tháng rưỡi nay thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn
luôn. Tuy ở Anh nhưng chẳng khác gì ở Pháp và ngày tháng chỉ lo làm cho khỏi đói chứ chẳng
học được bao nhiêu. Cháu ao ước rằng 4-5 tháng nữa khi gặp Bác thì cháu sẽ nói và hiểu được
tiếng Anh nhiều nhiều.
Bên ta có gì mới không? Và nếu Bác dịch xong mấy hồi rồi xin Bác gởi cho cháu. Chuyến
này Bác sẽ đi nghỉ hè ở đâu?
Nay kính”
Cuồng Điệt Tất Thành.
Crayton Cong Hotel
West Ealingw
Lon don
Câu cuối thư hỏi về vấn đề đi nghỉ hè theo tập quán ở Phương Tây và không nói gì đến
không khí chiến tranh, cho phép ta đoán thời gian viết thư khoảng giữa năm 1913.
Câu "Xin gởi mấy hồi sau " của một bản dịch chắc là của tập Giai nhơn kỳ ngộ mà Tất
Thành đã đọc "mấy hồi trước” trong một chuyến đến thăm cụ Phan trước đó.
Ở Anh mà làm việc với người Pháp và nói tiếng Pháp có thể là với sự gởi gắm của bạn bè
Pháp, Tất Thành đã vào làm việc trong ê-kíp hầu hết là người Pháp của vua bếp Ê-xcốp-phi-e.
Với lời ước hẹn “4, 5 tháng nữa lúc gặp Bác cháu sẽ…” có thể thấy rõ hơn trong tình
hình Bác Phan khó di chuyển vì bị kiểm soát, từ Anh, Tất Thành có thể đã có nhiều cuộc đến
gặp Bác tại Pa-ri...
Ngoài hai bức thư trên, cụ Phan còn giữ được một cái “các” của Cuồng Điệt Tất Thành
gửi từ một địa phương tên là “Xu-phơ-ra-rat" mà tập sách Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử xác
định là ở Anh. Nội dung là một bài thơ tám câu bảy chữ nói lên cảm xúc của bản thân với tác
phẩm: “Giai nhân kỳ ngộ", Cụ Phan đã phóng tác...
Lời cuối thật thắm thiết "Hy Mã nghi bá đại nhơn thấu Cuồng Điệt".
Có một bức thư thứ tư của Tất Thành do bà Thu Trang tìm được bản dịch tiếng Pháp ở thư
khố Ô-đi-nô của Bộ Ngoại giao Pháp đã dịch lại như sau:
"Kính gửi Nghi bá đại nhơn, Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
7
Tiếng súng đã rền vang và thây người đã phủ trên đất, Năm cường quốc đã vào vòng chín
nước đang đánh nhau. Cháu chợt nhớ đến thư cách đây mấy tháng đã viết về cơn dông bão này.
Định mệnh sẽ dành cho chúng ta nhiều bất ngờ và không thể nói trước ai sẽ thắng…
Các nước trung lập đang còn lưỡng lự và các nước tham chiến chưa rõ được ý họ. Tình
hình thư vậy ai nhúng mũi vào thì chỉ có thể đứng về phía này hoặc phía kia. Hình như người
Nhật có nhúng tay vào. Cháu nghĩ trong vòng ba, bốn tháng nữa số phận châu Á sẽ thay đổi, và
thay đổi nhiều. Mặc kệ những kẻ đang đánh nhau và bạo động, phần chúng ta hãy cứ bình tâm.
Xin gửi lời thăm Nghi bá và em Dật. Xin trả lời cháu về địa chỉ sau đây:
Nguyễn Tất Thành
Số nhà 8
Stenphen Totterham Rd. Lon don".
Thư trên được viết khi cuộc chiến đã diễn ra ác liệt. Nhưng theo tài liệu sưu tầm được thì
Phan Châu Trinh cùng với Phan Văn Trường đã bị bắt ngày 14/9/1914, chỉ hơn một tháng sau
khi chiến tranh bắt đầu. Như vậy có thể là Tất Thành đã viết thư khi chưa biết cụ Phan bị bắt và
thư này đã bị cơ quan điều tra lấy được, cho dịch và gửi cho Bộ Ngoại giao.
Ngoài ra, Báo cáo kết thúc vụ án của Dự thẩm toà án binh Ca-ron viết rõ là "Soát nhà
Phan Chu Trinh đã lấy được nhiều thứ rất khả nghi trong đó có các thư của Tất Thành ở số 8
đường Stenphe Road - Totterham ở London, đã gửi công hàm cho Chính phủ Anh nhờ soát nhà
Tất Thành không được phía Anh đáp ứng".
Trong biên bản thẩm vấn Cao Đắc Minh với tư cách nhân chứng, Ca-ron có đưa ra một thư
và Đắc Minh đã khẳng định đó là thư Tất Thành trả lời cho Cụ Phan.
Trong bức thư bà Thu Trang tìm thấy được ở thư khố Ô-đi-nô, Tất Thành cũng nhắc đến
thư viết về "cơn dông bão" chắc cũng ở trong số thư đã bị lấy khi soát nhà Cụ Phan.
Các tài liệu trên cho thấy mối quan hệ thân tình giữa Bác Hồ và cụ Phan ngay từ trong
nước và sự gắn bó giữa hai vị trong những năm đầu Người tham gia hoạt động cách mạng.
Niềm hy vọng cuối đời của Phan Chu Trinh
Phan Châu Trinh là nhà yêu nước lớn của Việt Nam đầu thế kỷ XX. Về tuổi tác, Phan
Châu Trinh là bậc cha chú của Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù giữa hai người có sự khác nhau về
phương pháp cứu nước, nhưng đối với Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc luôn một lòng tôn
kính. Trong thời gian cả hai người cùng sống ở châu âu, nhưng có lúc không gần nhau: Nguyễn
Ái Quốc ở Anh, Phan Châu Trinh ở Pháp; Nguyễn Ái Quốc đã có một số lần viết thư gửi cụ
Phan trong thời gian xảy ra Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Nguyễn ái Quốc về hoạt động ở Pa-ri và được cụ
Phan Châu Trinh giúp đỡ rất nhiều. Ở Pa-ri lúc đó còn có luật sư Phan Văn Trường. Vào tháng
11/1919, mật thám Pháp có nhận xét về ba người như sau:
"Đa số những người thông ngôn đã nhận xét về Phan Châu Trinh là một nhà cách mạng
khôn khéo, Phan Văn Trường là người đã dịch tư tưởng của ông, còn Quốc thì là một nhà nho
cộng sự của hai người trên, ít ai biết".
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đời sống ở Pháp rất khó khăn, vất vả. Phan Châu
Trinh lúc ấy đã thành thạo nghề thợ chữa ảnh. Mỗi tháng Cụ kiếm được độ 100 quan, nên đã
giúp đỡ Nguyễn Ái Quốc. Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
8
Nguyễn Ái Quốc được Khánh Ký và cụ Phan Châu Trinh trợ giúp để sinh sống. Nhiều mật
báo đã gửi về cho Bộ Thuộc địa Pháp cho biết:
"Quốc ở nhờ nhà của Phan Văn Trường. Sinh sống thì do Khánh Ký và Phan Châu Trinh
cấp dưỡng, mỗi tháng không quá 500 Francs". Ở Pa-ri, Nguyễn Ái Quốc có tham gia vào việc
chuyên chữa ảnh tại xưởng chữa ảnh của Phan Châu Trinh để có thêm tiền tiêu dùng.
Ngoài việc giúp đỡ nói trên, trong thời gian đầu, cụ Phan Châu Trinh còn giúp đỡ Nguyễn
Ái Quốc làm quen với những người bạn Pháp.
Tài liệu thư khố cho biết, những người bạn Pháp có cảm tình với Phan Châu Trinh thì cũng
trở thành bạn của Nguyễn Ái Quốc. Cụ Phan Châu Trinh đã giới thiệu những người Pháp mà Cụ
biết chắc chắn có cảm tình với Việt Nam để những người này có thể giúp đỡ Nguyễn ái Quốc
như: Giu-lét Ru, Ma-rin Ma-tel, nhà báo Bác-buýt.
Bác-buýt là người đã vận động Hội Nhân quyền để cứu Phan Châu Trinh thoát án tử hình
sau vụ chống thuế 1908.
Ru là nhà Việt Nam học, vào năm 1914, khi cụ Phan Châu Trinh bị bắt đã vận động ráo
riết, tìm cách chứng minh cụ Phan Châu Trinh vô tội.
Ma-tel từng chống đối chính sách hà lạm, độc ác của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Nhờ cụ Phan Châu Trinh giới thiệu, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành bạn của những người
nói trên.
Cùng có nhiệt tình yêu nước, cùng có trách nhiệm đối với nhân dân nhưng phương pháp
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và cụ Phan Châu Trinh lúc đầu không hoàn toàn giống nhau.
Cụ Phan Châu Trinh muốn giữ cương vị của mình là một nhà chí sĩ yêu nước không đảng phái...
còn Nguyễn Ái Quốc thì đến với học thuyết Mác - Lênin. Và sau nhiều thất bại, khi đã cảm thấy
mình bất cập với thời thế, trong một bức thư đề ngày 18/2/1922 gửi từ Mác-xây cho Nguyễn Ái
Quốc ở Pa-ri, cụ Phan Châu Trinh đã chân thành bộc bạch: Tôi tự ví thân tôi như con ngựa già
hết nước kiệu, phi nước tế. Thân tôi tựa như chim lồng, cá chậu. Vả lại, cây già thì gió dễ lay.
Người già thì trí dễ lẫn. Cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia vong, mà hơi tàn cũng
phải gào cho hả, may ra có tỉnh giấc hồn mê...
Và ở cuối thư, cụ Phan Châu Trinh vui mừng viết rằng Nguyễn Ái Quốc “như cây đương
lộc, nghị lực có thừa, dày công học hành, lý thuyết tinh thông”. Cụ Phan Châu Trinh tin rằng
"không bao lâu nữa cái chủ nghĩa Anh tôn thờ (ý chỉ chủ nghĩa Mác – Lênin) sẽ thâm căm cố đế
(sân rễ bền gốc) trong đám dân tình chí sĩ nước ta” .
Năm 1925, cụ Phan Châu Trinh về nước và sớm qua đời vào năm 1926. Trong thời gian
đó, những đánh giá và niềm tin đối với Nguyễn Ái Quốc của Phan Châu Trinh vẫn nguyên vẹn.
Cụ Phan thổ lộ với các đồng chí của mình như Lê Văn Huân, Huỳnh Thúc Kháng trước khi Cụ
qua đời rằng "Sự nghiệp độc lập nước nhà trông cậy vào Nguyễn Ái Quốc". Câu nói ấy cũng
được nhắc lại với lớp người cách mạng trẻ như Trần Huy Liệu, Tôn Quang Phiệt... khi tìm đến
hỏi Cụ về vận mệnh của đất nước.
Trong mọi trường hợp, thái độ tôn kính của Nguyễn Ái Quốc đối với cụ Phan Châu Trinh
là điều dễ hiểu. Trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần
Dân Tiên cho biết tình cảm của Nguyễn Tất Thành đối với cụ Phan Châu Trinh, khi Anh vui
mừng viết thư cho bạn bè: "Tôi đã gặp nhà ái quốc Phan Châu Trinh". Sau này, khi đã trở thành
Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhớ lại cụ Phan, Người viết: “Cụ Phan Châu Trinh mở Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
9
trường học, bí mật truyền bá chủ nghĩa yêu nước và công kích bọn cầm quyền Pháp. Vì vậy, Cụ
bị kết án tử hình, nhưng được Hội Nhân quyền Pa-ri cứu”.
Tình cảm của Nguyễn Ái Quốc đối với cụ Phan Châu Trinh rất sâu sắc khi Cụ qua đời
(1926). Nguyễn Ái Quốc trân trọng đúng mức tinh thần yêu nước của cụ Phan Châu Trinh, đánh
giá cao ảnh hưởng của Cụ đối với phong trào cách mạng của đất nước. Nguyễn Ái Quốc viết:
"Nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, một người thuộc phái quốc gia khác vừa qua đời. 30.000 người An
Nam ở khắp xứ Nam Kỳ đã làm lễ an táng theo quốc lễ và khắp nước đã tổ chức lễ truy điệu nhà
chí sĩ. Chỉ trong vòng vài ba ngày, một cuộc lạc quyên đã thu được 100.000 đồng. Tất cả học
sinh, sinh viên đều để tang Cụ.
Trước phong trào yêu nước của toàn dân, bọn thực dân Pháp sợ hãi, bắt đầu phản công lại.
Chúng cấm học sinh đề tang và tổ chức lạc quyên. Chúng cấm tổ chức các lễ truy điệu, v. v… để
phản đối lại, học sinh đã bãi khoá…".
Ở tác phẩm Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản về phong trào cách mạng ở An Nam, Nguyễn
Ái Quốc nhắc lại phong trào cả nước để tang cụ Phan Châu Trinh.
"Năm 1926, có một sự thức tỉnh trong toàn quốc tiếp theo sau cái chết của một nhà quốc
gia chủ nghĩa già - Phan Châu Trinh. Khắp trong nước đều tổ chức lễ truy điệu Chữ "chủ nghĩa
quốc gia" từ đó được nói và viết một cách công khai. Những giáo viên Pháp tìm cách ngăn cấm
học sinh tham gia các cuộc mít-tinh đó. Nam, nữ học sinh ở nhiều trường, đặc biệt là ở Sài Gòn
là nơi tổ chức đám tang, đã tuyên bố bãi khoá. 20.000 người di theo linh cữu, mang biểu ngữ
viết những khẩu hiệu có tính chất quốc gia chủ nghĩa. Người An Nam chưa hề được chứng kiến
một việc to lớn như vậy bao giờ trong lịch sử".
Nguồn : Bác Hồ với đất Quảng, Tỉnh uỷ Quảng Nam.
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
Chuyện thứ 4:
Bác Hồ với cụ Phan Bội Châu
Bức thư Phan Bội Châu gửi Lý Thuỵ (Nguyễn Ái Quốc)
Người cháu rất kính yêu của Bác,
Hôm trước anh Lâm (Đức Thụ) và anh Hồ (Hồ Tùng Mậu) gửi lại thư của Cháu, trong thư
có nói tường tận về chuyện ông Hy Mã (Phan Châu Trinh). Tuy thư đưa trực tiếp trên chuyện
thật nhưng ngụ ý thật sâu sắc, mà lối lập luận lại dựa trên những ý tưởng lớn, nhân đó mới biết
là học vấn, tri thức của cháu nay đã tăng trưởng quá nhiều, quả thật không phải như hai mươi
năm về trước.
Nhớ lại hai mươi năm trước đây, khi đến nhà cháu uống rượu gò án ngâm thơ, anh em
cháu đều chửa thành niên, lúc đó Phan Bội Châu này đâu có ngờ rằng sau này cháu sẽ trở
thành một tiểu anh hùng như thế này. Bây giờ đem so kẻ già này với cháu thì bác thấy rất xấu
hổ. Nhận được liên tiếp hai lá thư của cháu, bác cảm thấy vừa buồn vừa mừng. Buồn là buồn
cho thân bác, mà mừng là mừng cho đất nước ta. Việc thừa kế nay đã có người, người đi sau
giỏi hơn kẻ đi trước, trên tiền đồ đen tối sẽ xuất hiện ánh sáng ban mai. Ngày xế đường cùng, Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
10
chỉ sợ không được thấy ngày đó, làm sao bác không cảm thấy buồn cho chính mình được? Một
đời tân khổ, gánh vác công chuyện một mình, được sức lớn của cháu giúp vào thì ắt sẽ có nhiều
người hưởng ứng theo. Việc gây dựng lại giang sơn, ngoài cháu có ai để nhờ ủy thác gánh vác
trách nhiệm thay mình. Có được niềm an ủi lớn lao như thế, làm sao bác không cảm thấy vui
mừng được.
Bác đang định tìm một dịp tốt về Quảng Đông một chuyến để đàm luận với cháu, không
biết cháu còn ở lại Quảng Đông lâu mau, hoặc giả trong tương lai có định đi chỗ khác không?
Trong lòng bác có nhiều chuyện muốn hỏi ý kiến cháu, nhưng không gặp mặt thì làm sao có thể
bàn cho hết ý được? Làm sao được? Nếu không coi già yếu là đồ bỏ thì cháu viết thư nhiều cho
bác, bác thành thật yêu cần cháu đấy.
Cần nhắc lại là Bội Châu lúc rời nước đã gần bốn mươi (ba mươi chín tuổi đến Nhật) lại
không thể tránh khỏi những trách nhiệm này nọ đặng chuyên chú học hành, cho nên tri thức lúc
bây giờ cũng vẫn như xưa. Cháu học vấn rộng rãi, và từng đi nhiều nơi, hơn bác cả chục cả
trăm lần. Tri thức và kế hoạch của cháu tất vượt sức đo lường của bác: không biết cháu có thể
chia sẻ cùng bác một hai việc? Bác rất hết sức mong đợi, mong cháu không ngại. Vì nếu không
có kế hoạch thì bất quá chỉ làm những khách tha hương than thở không đâu cho hồn cố quốc,
chả giống ông Hy Mã thì cũng giống Phan Bội Châu mà thôi!
Thư bất tận ngôn, mong cháu hiểu giùm cả những ý không viết thành lời. Chúc cháu bình an
Ngày 21 tháng 1 lịch ta (14 tháng 2 năm 1925 dương lịch) viết dưới đèn dầu
Chỗ bác ở đâu nơi đất khách thì Quốc Đống (Hồ Tùng Mậu đã biết tên không ghi ở đây.
Thư này nhờ Quốc Đống chuyển giúp.
Bác Thứ Cụ
Nguồn: Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh,
Mai Văn Bộ. NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2000.
Chuyện thứ 5:
Bác Hồ với cụ Huỳnh Thúc Kháng
“Dân ta có Cụ Hồ quả là hồng phúc”
Vào cuối năm 1945, sau hai lần nhận được điện mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Huỳnh
Thúc Kháng từ Huế đã ra Thủ đô Hà Nội. Gặp nhau, hai người ứa nước mắt. Bác Hồ nói: Việc
mời Cụ ra nhậm chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ là ý kiến chung của tất cả anh em các đảng phái, chứ
không phải ý kiến riêng của tôi, vì Cụ ở lại trong nước, Cụ biết rõ trình độ tiến bộ của đồng bào
ba kỳ, đồng thời đồng bào ba kỳ đều tín nhiệm Cụ.
Cụ Huỳnh nói: "Tôi ra đây là cốt gặp Cụ, chớ lúc này là lúc cần tăng gia sản xuất mà tôi
không biết cầm cày, cầm cuốc; lại cần phải kháng chiến mà tôi lại không mang súng nổi. Cụ nên
kiến nghị người trẻ thạo việc để trao nhiệm vụ thì hơn".
Sau nhiều lần trao đổi, cuối cùng cụ Huỳnh Thúc Kháng đã nhận lời tham gia Chính phủ
do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
11
Tại cuộc họp đầu tiên của Quốc hội ngày 2/3/1946, khi giới thiệu danh sách Chính phủ
Liên hiệp để Quốc hội thông qua, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày:
"Bộ Nội vụ: một người đạo đức danh vọng mà toàn quốc dân ai cũng biết: Cụ Huỳnh Thúc
Kháng".
Sau đó cụ Huỳnh lại được cử làm Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (gọi tắt là
Hội Liên Việt).
Sáng ngày 31/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Hà Nội đi Pháp để mở cuộc đàm phán
chính thức với Chính phủ Pháp. Sân bay Gia Lâm hôm ấy đông nghịt người ra tiễn. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đi một vòng chào các đại biểu và đồng bào. Đồng bào vẫy cờ, vỗ tay hoan hô và chen
lấn nhau ra phía trước để được nhìn rõ Người.
Sắp đến giờ lên máy bay, Bác tới nắm tay cụ Huỳnh nói:
- Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm sự khó khăn nhờ cậy ở
Cụ cùng với anh em giải quyết cho. Mong Cụ "dĩ bất biến ứng vạn biến" (lấy cái không thay đổi
để đối phó với muôn sự thay đổi).
Cụ Huỳnh rất cảm động, cầm tay Bác hồi lâu, Bác đã uỷ nhiệm cụ Huỳnh làm Quyền Chủ
tịch nước trong thời gian Bác đi vắng.
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, có lúc cụ Huỳnh Thúc Kháng cảm thấy cô đơn,
chán nản. Từ sau khi được gặp và hiểu rõ Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Huỳnh Thúc Kháng vui
mừng vì được gặp người bạn già tri kỷ là Hồ Chí Minh. Cụ đã nói với một người bạn: "Dân ta
có Cụ Hồ quả là hồng phúc". Trong bài "Thất thập tự thọ ", Cụ Huỳnh viết:
“Bảy tuần đầu bạc như bông
Gặp người tri kỷ thôi xong đã già”
Thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm nước Pháp, cụ Huỳnh đã có bài thơ ca ngợi Người:
“Tung hoành bể Sở với non Ngô
Đàm lược ai hơn Chủ tịch Hồ
Mưa gió dãi dầu bao tuế nguyệt
Nước non gây dựng nổi cơ đồ
Sen kia chẳng ngại hôi bùn lấm
Tùng họ bao phen ngọn gió xô
Khắp cả ba kỳ đều tín nhiệm
Rộn ràng muôn miếng tiếng hoan hô”
Giải thích về việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946, cụ
Huỳnh nói:
"Hội đồng Chính phủ không bán nước!... Tôi xin tuyên bố vắn tắt với anh em, đó chẳng
qua là một nước cờ của Hồ Chủ tịch với cả nước Pháp lẫn Tưởng Giới Thạch. Hồ Chủ tịch là
một tay cao cờ. Tôi chắc chắn và anh em cứ đinh ninh rồi đây thế nào mình cũng thắng thế".
Trước ngày cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ngày 3/11/1946, báo cáo trước Quốc
hội về việc thành lập Chính phủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Cụ Huỳnh, vì tuổi già sức yếu
mà cố từ, nhưng vì tôi lấy đại nghĩa mà lưu Cụ, Cụ cũng gắng ở lại.
Sau đó, Cụ Huỳnh được Bác cử đi kinh lý miền Trung và miền Nam Trung Bộ với danh
nghĩa đại diện Chính phủ Trung ương. Cuối năm 1946, khi về thăm quê hương Tiên Phước, cụ Tài liệu sinh hoạt “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”
12
Huỳnh tâm tình với bà con: "Tôi đã vào loại sáng nhưng cụ Hồ lại sáng hơn tôi nhiều. Cụ Hồ có
những người giúp việc thông minh lắm, giỏi lắm, tin tưởng lắm. Cụ Hồ rất vĩ đại, dưới có đội
ngũ giúp việc tài năng, nhất định sẽ đưa dân tộc ta đến toàn thắng. Ở Hà Nội, Hồ Chủ tịch tiết
kiệm lắm. Mỗi bữa cơm, cụ Hồ chỉ dùng có một quả trứng...".
Đầu năm 1947, với danh nghĩa Hội trưởng Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, cụ Huỳnh
viết bức thư dài bằng chữ Hán (thể phú) nhan đề: “Kính cáo đồng bào phụ lão kháng chiến thư”
Nói về Hồ Chủ tịch và Cách mạng Tháng Tám năm 1945, bức thư có đoạn (theo bản dịch
của Nguyễn Văn Hạp...):
“Người thân yêu, kính mến nhất của đồng bào quốc dân ta là Hồ Chí Minh tiên sinh. Là
bậc yêu nước đại chí sĩ, là nhà lịch nghiệm cách mạng đại chuyên gia, chân đi khắp năm châu,
mắt trông xa vạn dặm...”.
Đầu tháng tư năm 1947, tại Quảng Nam, trong một buổi nói chuyện với các thân hào nhân
sĩ, có người lên tiếng hỏi cụ Huỳnh:
'Tôi thuở nay nghe biết tên nhiều nhà cách mạng hoạt động trong nước cũng như ở nước
ngoài. Nhưng chưa từng nghe tiếng ông Hồ Chí Minh. Vậy Hồ Chí Minh là ai vậy?”.
Cụ Huỳnh trả lời:
“Ông Hồ Chí Minh là con cụ Phó bảng Sắc ở Nghệ An, suýt soát lớp ông và tôi. Ông Hồ
hoạt động chính trị ở nhiều nước Â, Á, Phi và hoạt động bí mật, tất nhiên là thay tên đổi họ luôn
luôn để tránh mạng lưới mật thám quốc tế. Nhưng cái tên làm chấn động thế giới là Nguyễn Ái
Quốc. Chắc ông biết, nhiều người biết”.
Cụ Huỳnh nhận xét: "Ông Hồ không phải như nhiều người khác mượn hai tiếng cách mạng
để rồi làm giàu hoặc làm quan to như các ông tưởng đâu. Ông Hồ không đồng xu dính túi. Nói
về bằng cấp thì ông Hồ không là tiến sĩ, phó bảng gì cả. Nhưng nói về tri thức và sự nghiệp cách
© 2024 - nslide
Website chạy thử nghiệm. Thư viện tài liệu miễn phí mục đích hỗ trợ học tập nghiên cứu , được thu thập từ các nguồn trên mạng internet ... nếu tài liệu nào vi phạm bản quyền, vi phạm pháp luật sẽ được gỡ bỏ theo yêu cầu, xin cảm ơn độc giả