Một số ý kiến so sánh, thảo luận
Hiện nay, trên thế giới cũng có một số chủng vi khuẩn thuộc chi Rhodococcus có
khả năng phân hủy phenol đã được công bố. Năm 2004, Amanda L. Jones và cộng sự đã
phân lập thành công chủng Rhodococcus gordoniae có khả năng phân hủy phenol từ đất
nhiễm phenol [8]. Tương tự như vậy, trên thế giới cũng có một số chủng vi khuẩn thuộc
chi Pseudomonas có khả năng phân hủy phenol cũng đã được công bố. Năm 2008, Lin và
cộng sự đã phân lập được chủng vi khuẩn Pseudomonas fluorescens có khả năng phân
hủy phenol cao được phân lập từ nguồn nước thải công nghiệp [26]…
Ở Việt Nam, Tô Kim Anh (2004) trong báo cáo đề tài đã phân lập được 6 chủng vi
khuẩn từ mẫu bùn thải của công ty xăng dầu Đức Giang và Xí nghiệp Dược phẩm TWI
có khả năng phân hủy 94,36% phenol. Năm 2010, Cung Thị Ngọc Mai và cộng sự đã
phân lập được chủng vi khuẩn có khả năng phân hủy phenol 86,86% sau 7 ngày nuôi cấy.
Như vậy, cùng với các chủng vi sinh vật khác, chủng Rhodococcus sp. BTLP1 và
Pseudomonas sp. BTL11 mà chúng tôi phân lập được đã góp phần làm phong phú thêm
số lượng các chủng vi khuẩn thuộc chi Rhodococcus và Pseudomonas nói riêng và hệ vi
sinh vật có khả năng phân hủy phenol nói chung, phục vụ cho công nghệ phân hủy sinh
học nguồn nước thải sau này.
7
. Kết luận và kiến nghị
a) Kết luận
Rút ra những kết luận ngắn gọn phản ánh các kết quả chính đã thu được trong
quá trình thực nghiệm. Ví dụ trong nghiên cứu này cần kết luận như sau:
Đã thu thập được 3 mẫu nước thải ở các khu công nghiệp, nhà máy ở Hà Nội, Thái
Nguyên và phân tích một số chỉ tiêu của nước thải đầu vào.
Làm giàu được tập đoàn vi sinh vật ở mẫu nước thải thu thập được.
Từ mẫu nước thải khu công nghiệp vừa và nhỏ Từ Liêm, đã phân lập được 6
chủng vi khuẩn có khả năng phát triển trên môi trường khoáng thạch có bổ sung
Phenol (có và không bổ sung glucose với nồng độ 0,1%) với các hình dạng và màu
sắc khác nhau. Trong đó có hai chủng BTLP1, BTL11 có khả năng phát triển
mạnh nhất trên môi trường gost thạch có bổ sung phenol.
Khuẩn lạc của chủng BTLP1 màu hồng, tròn, bóng nhớt, không ăn sâu vào thạch,
D: 2 - 3 mm. Hình dạng tế bào được quan sát bằng kính hiển vi với độ phóng đại
7
.500 lần. Tế bào có dạng hình que, kích thước (0,6 - 0,8) m x (3,6 - 4,4) m.
Khuẩn lạc của chủng BTL11có màu trắng đục, đường kính từ 3 - 5 mm và mọc lan
1
2