SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

 

HƯỚNG DẪN HỌC SINH ĐẶT LỜI MỚI CHO BÀI DÂN CA,

TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC ÂM NHẠC CẤP THCS

 

  1. Mở đầu

 

I.  Đặt vấn đề:

Trong nghị quyết Trung ương II khoá VIII của ban chấp hành  Trung  ương Đảng, có đề cập đến vấn đề: “Cần phải  giáo dục toàn diện, giáo dục Đức-Trí-Thể-  Mĩ trong nhà trường phổ thông”. Để góp phần đưa những đường lối, phương hướng của Đảng vào thực tiễn giáo dục. Tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ và việc làm  của mình, những suy nghĩ về một phần nhỏ trong một mặt của giáo dục toàn diện, đó là giáo dục âm nhạc trong giáo dục thẩm mĩ. Hơn nữa lại là âm nhạc dân gian, đó là cái hồn của dân tộc, là tài sản vô giá, là bản sắc văn hoá dân tộc.

Hội nghị Trung ương V khoá VIII đã thông qua nghị quyết Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộcvà đây cũng là nền tảng tinh thần của xã hội chủ nghĩa và xã hội Cộng sản chủ  nghĩa.

Theo Hồ Chí Minh: “Văn hoá văn nghệ biểu hiện tập trung nhất của nền văn hoá, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, văn nghệ phải gắn liền với thực tiễn của đời sống nhân dân, đó cuộc sống lao động sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt xây dựng cuộc sống mới. Văn nghệ vừa phản ánh thực tiễn vừa hướng cho nhân dân thúc đẩy sự phát triển của thực tiễn ấy theo qui luật của cái đẹp. Văn nghệ phát triển sao cho xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân tộc, phải phục vụ cho quần chúng   và được quần chúng yêu thích, đem lại những chuyển biến tích cực trong tưởng, tình cảm, tâm hồn của con người”.

1/Thực trạng:

Trong chương trình âm nhạc được Bộ GD và ĐT đưa vào giảng dạy ở trường THSC gồm các phân môn: Học hát, tập đọc nhạc (TĐN) âm nhạc thường thức (ÂNTT). Trong phân môn TĐN có nội dung hướng dẫn cho học sinh (HS) đặt mới   lời ca cho bài TĐN; trong phân môn học hát có nội dung hướng dẫn cho HS đặt lời mới cho bài dân ca. Đây là một thử thách cho giáo viên trực tiếp giảng dạy. Bởi lẽ, chưa có một lớp hay một khóa nào đào tạo hay tập huấn cho GV về phương pháp đặt lời ca cho một giai điệu cho trước hay thay lời mới cho bài dân ca.

Tôi đã tìm hiểu một số đồng nghiệp cùng giảng dạy bộ môn Âm nhạc THCS trong huyện và dự một số tiết dạy có liên quan đến việc đặt lời mới cho bài TĐN và cho bài dân ca. Qua tâm tư với một số Thầy, Cô qua nhìn nhận thực tế trên tiết dạy, thì việc hướng dẫn cho HS đặt lời mới cho một bài TĐN và bài dân ca vẫn còn mang tính ước lệ, chưa có phương pháp cụ thể, mức độ lĩnh hội của HS cũng chỉ mang tính trừu tượng.

Qua thực tế giảng dạy trong hơn mười năm, tôi mạnh dạn sáng tạo và dạy thử nghiệm tại trường THCS Hoài Hương, Hoài Nhơn, Bình Định đã thu được một vài kinh nghiệm trong việc hướng dẫn HS đặt lời mới cho bài TĐN và bài dân ca.  Trong

 


 

bài viết này, tôi không có tham vọng đi sâu nghiên cứu, khảo sát cả hai ý nói trên mà chỉ trình bày một vài phương pháp hướng dẫn HS đặt lời mới cho một số làn điệu  dân ca. Tôi không dám xem đây là phương pháp tối ưu, mà chỉ  là những  kinh  nghiệm chủ quan của bản thân tích lũy được trong quá trình thực nghiệm và giảng dạy.

Một động cơ thứ hai để tôi chọn đề tài này là nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS. Hơn nữa, việc đặt lời mới cho một bài dân ca là một việc làm hết sức    cần thiết không chỉ riêng cho lứa tuổi HS mà cho tất cả mọi người, nhằm góp phần phát huy và bảo tồn nền âm nhạc dân gian của dân tộc.

2/ Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:

+ Ý nghĩa:

Âm nhạc là một loại hình âm thanh, bằng các hình tượng âm thanh phản ánh  cuộc sống xung quanh chúng ta. Âm nhạc có sức diễn cảm lớn, âm thanh thể hiện được tất cả những mà con người đã trải qua: niềm vui sướng, nổi khổ đau, sự  chống đối, nổi dằn vặt thầm kín trong tâm tư, những khát vọng, những ước mơ,  những hạnh phúc,...

Có lẽ chúng ta đều biết rằng âm nhạc đã nãy sinh trong quá trình tiến hóa của  con người. Được con người bảo vệ, chăm sóc và phát triển để rồi âm nhạc quay trở  lại phục vụ con người, giúp con người học tập, lao động sáng tạo. Trong kho  tàng âm nhạc dân gian của mỗi dân tộc đã phản ánh được những giai đoạn, những hiện tượng quan trọng của cuộc sống con người. Những lời hát ru khi con người mới chào đời, những bài hát đồng dao khi vừa mới lớn, những câu hát dao duyên tỏ tình khi trưởng thành; những bài hát chiến trận, những bài ca lao động và cả những khúc    nhạc tiễn đưa khi con người giã từ cuộc sống. Mỗi dân tộc đều tồn tại riêng nền nghệ thuật của dân tộc mình, đó là kho tàng quí báu của nền văn hóa dân tộc. Người Việt Nam chúng ta cũng vậy, chắc chắn rằng không có một ai không nhớ một bài ca, điệu hò, điệu lí của quê hương, của dân tộc mình.

Âm nhạc và con người không bao giờ tách rời nhau. Âm nhạc gắn chặc với con người khi mới lọt lòng qua giọng nói dịu dàng và lời ru ngọt ngào của người mẹ. Đó chính là bài học hát đầu tiên ở cuộc đời của mỗi con người. Trong nhà trường, âm nhạc là bộ phận giáo dục mĩ học cho các em, giúp các em trở thành những con người có văn hóa, giàu tính nhân văn và có lòng yêu Tổ Quốc, yêu đồng bào, có tính trung thực và lòng dũng cảm như Bác Hồ từng mong muốn. Giáo dục âm nhạc trong nhà trường cũng là nơi ươm mầm, nuôi dưỡng năng khiếu âm nhạc để kế thừa, phát triển cho nền âm nhạc nước nhà, giữ gìn, phát huy, bảo  tồn kho  tàng âm nhạc dân gian  của dân tộc.

Dân ca gắn bó với mỗi con người không thể rứt rời như tình mẫu tử. Bởi nhẽ  dân ca là tiếng nói thân thương dịu hiền, là lời ru ngọt ngào của người mẹ, của quê hương xứ sở, của nơi chôn rau cắt rốn. Hình ảnh quê hương khắc sâu trong mỗi con người qua những hình ảnh thả diều bắt bướm thời ấu thơ và những câu hò điệu lí, những khúc hát đồng dao,...

Tuổi thơ được nghe và được hát những câu hò, điệu lí quê hương như được   cùng nhau nô đùa, tắm mát dưới dòng sông quê, như được sự vỗ về ân cần, hiền hòa của người mẹ. Cũng chính từ đây,  nhân cách các em bắt đầu hình  thành và phát  triển. Tình yêu thương bạn bè, tình yêu quê hương  đất nước tình yêu đồng loại ngày

 


 

một bao dung, khí phách tự hào quê hương, tự hào dân tộc càng được hình thành  vững chãi.

Dân ca là sản phẩm tinh thần quí giá của cha ông để lại, nếu không được trân trọng, giữ gìn, học tập và phát triển vốn quí ấy thì hỏi trong tương lai không xa nền dân ca Việt Nam sẽ đi về đâu.

+ Tác dụng của giải pháp mới:

Với giải pháp mới, tạo được thuận lợi cho GV khi hướng dẫn HS thực hiện sáng tạo lời mới cho một bài dân ca từ đơn giản đến nâng cao.  Người  học  có  được phương pháp làm nền móng cho sự sáng tạo, phát triển, nâng cao chất lượng, nâng  cao tầm hiểu biết cho người học, không chỉ để áp dụng trong bài học mà còn ứng dụng thực tiễn vào sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian ở địa phương.

3/ Phạm vi nghiên cứu của đề tài:

+ Về không gian: Tôi chưa giám mở rộng địa bàn nghiên cứu trong toàn huyện, mà chỉ nghiên cứu trong phạm vi tại trường nơi đang giảng dạy.

+ Về đối tượng: Chưa mở rộng qui mô đại trà trong HS, chỉ trong phạm vi HS

khá, giỏi từ lớp 7 đến lớp 9 và một số HS thích ca hát tự nguyện tham  gia.

+ Về phạm vi chuyên môn của đề tài:

Trong những năm qua tôi đã nghiên cứu và thực hiện vấn đề này, mục đích ban đầu chỉ đơn giản là hướng cho các em có thái độ trâng trọng với nền âm nhạc dân gian. Nhưng sau đó các em lại rất thích, bởi các em được thể hiện tài năng của mình trước bạn bè, được hát một làn điệu dân ca mà chính bản thân mình sáng tạo ra một lời ca mới.

Từ yếu tố trên, tôi nhận thấy cần tạo điều kiện thuận lợi cho các em được phát huy hơn nữa trong việc đặt lời mới cho bài dân ca. Muốn  làm được việc này, cần phải nghiên cứu sâu vào mảng âm nhạc dân gian, tìm ra phương pháp hữu hiệu để giúp các em thực hiện.

Âm nhạc dân gian có 3 phần chính đó dân nhạc, dân ca và dân vũ. Trong đề tài này tôi chỉ đề cập đến dân ca. Dân ca là những bài hát do dân sáng tác ra, không  rõ tác giả. Dân ca Việt Nam rất phong phú đa dạng do đặc trưng vùng, miền, dân tộc anh em... Thể loại cũng rất đa dạng như: Hò, Vè, Hát đối đáp, Hát ru, Hát xoan, Hát ghẹo, các điệu lí vân vân. Song hầu hết các thể loại đều cấu trúc gọn gàng, thường được xây dựng trên câu ca dao lục bát. dụ:

+ Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên (Lí Mười thương: dân ca  Bình-Trị-Thiên)

+ Ai đem con sáo sang sông

Để cho con sáo sổ lồng bay xa (Lí con sáo: dân ca Nam  bộ)

+ Trèo lên trên rẫy khoai lang

Chẽ tre đan sịa cho nàng phơi khoai (Hò ba lí: dân ca Quảng  Nam)

+ Mài dừa đạp cám cho nhanh

Ép dầu để chải tóc anh, tóc nàng (Hò mài dừa: dân ca Bình  Định)

+ Con cò bay lả bay la

Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng (Cò lả: dân ca Đồng bằng Bắc  bộ)

Ngoài ra cũng có những làn điệu được xây dựng trên hai câu 7 chữ hoặc 8  chữ:

+ Gió mùa thu mẹ ru con ngủ

Năm canh chày thức đủ vừa năm (Ru con; dân ca Nam bộ)

 


 

+ Trèo lên quán dốc, ngồi gốc cây đa

Cho đôi mình gặp, xem hội đêm rằm (Lí cây đa: dân ca Quan họ Bắc  Ninh)

Cùng với sự phát triển của xã hội, lời ca của các làn điệu dân ca luôn được bổ sung để phù hợp với từng giai đoạn của lịch sử, phù  hợp  với từng nội dung sinh  hoạt, lao động, phù hợp với từng lứa tuổi...

Xin ví dụ một vài làn điệu để ví dụ và diễn giải:

Ví dụ 1: Bài Ví dặm dân ca Nghệ An

Lời gốc: Anh ơi khoan vội bực mình

Em xin kể lại  phân minh tỏ tường.

Lời mới: Trồng cây lại nhớ đến Người

Rừng bao cây mọc, thương Người bấy nhiêu.

Ví dụ 2:  Bài Hò ba lí dân ca Quảng Nam

Lời gốc: Trèo lên trên rẫy khoai lang

Chẽ tre đan sịa cho nàng phơi khoai.

Lời mới: Này anh bạn trẻ kia ơi

Chẳng lo học tập bạn cười người chê.

Trên đây chỉ là một vài ví dụ trong rất nhiều làn điệu dân ca được bổ sung,   thay

thế lời ca, chỉ một làn điệu thôi cũng có rất nhiều lời ca mới có nội dung khác  nhau.

II.  Phương pháp tiến hành đề tài:

1/Cơ sở lí luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu, tìm giải pháp của đề tài:

Trong chương trình giáo khoa Âm nhạc THCS, phần dạy - học hát dân ca chỉ mang tính tượng trưng, đại diện quá khiêm tốn.

-Lớp 6 bài con sáo Gò Công; Đi cấy dân ca Thanh Hóa

-Lớp 7 có bài Lí cây đa dân ca Quan họ Bắc  Ninh.

-Lớp 8 có bài Lí dĩa bánh bò dân ca Nam bộ; Hò ba lí dân ca Quảng  Nam.

-Lớp 9 bài Lí kéo chài dân ca Nam bộ.

Số lượng bài hát dân ca trong chương trình giảng dạy quá ít ỏi. Để góp thêm sự hứng thú cho HS, và tạo thêm lòng yêu thích dân ca, phát huy tính tích cực, sáng tạo đồng thời phát hiện được khả năng sáng tác lời ca mới ở các em. Người giáo viên  phải cung cấp cho các em những kiến thức về phương pháp đặt lời ca mới cho một giai điệu trước, cụ thể là cho một làn điệu dân ca.

Qua kết quả thử nghiệm ban đầu, tôi nghiên cứu sâu hơn và tìm phương pháp thực hiện đơn giản mà hiệu quả để hướng dẫn các em thực hiện.

2/Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo giải pháp:

2.1 /Tìm hiểu cấu trúc của bài hò, lí trước khi đặt lời mới:

Như đã trình bày, các làn điệu dân ca cấu trúc ngắn gọn thường được xây dựng trên câu ca dao lục bát. Có những làn điệu giữ nguyên câu lục bát mà không thêm những từ phụ, câu phụ, chỉ điệp lại những từ trong câu lục bát, hoặc đảo ngữ để làm cho giai điệu bài hát thêm phong phú nhưng vẫn không bị thay đổi nội dung   và tính chất đặc trưng nghệ thuật của làn điệu dân ca đó. Ví dụ bài Lí chiều chiều-  dân ca Nam bộ, được xây dựng trên câu

Chiều chiều ra đứng lầu tây- thấy cô gánh nước tưới cây ngô  đồng.

Thực tế lời ca là:

Chiều chiều ra đứng tây lầu tây, tây lầu tây

 


 

Thấy cô tang tình mà gánh nước, tưới cây, tưới cây ngô đồng

Xui ai xui trong lòng, trong lòng tôi thương Thương cô tưới cây ngô đồng.

Một ví dụ khác, bài Lí cây bông dân ca Nam bộ, được xây dựng trên câu:

Bông xanh bông trắng bông vàng- bông lê, bông lựu đố nàng mấy  bông.

Thực tế lời ca là:

Bông xanh, bông trắng rồi lại vàng bông ơi rượn ơi

Bông lê cho bằng bông lựu ơi rượn ơi  Là đố í a đố nàng, bông rồi lại mấy bông Là đố í a đố nàng, bông rồi lại mấy bông

Có những làn điệu tạo ra hai mảng, một mảng cố định và một mảng thay đổi. Mảng cố định dùng cho tập thể theo gọi là “xô”; mảng thay đổi dùng cho một người hát gọi là “xướng”. Mảng “xướng” có thể thay đổi lời ca mới, có nội dung   mới, mảng “xô” không thay đổi nhưng vẫn gắn khít chặt chẽ, không ảnh hưởng đến nội dung và tính chất nghệ thuật. Bài ba lí dân ca Quảng Nam là một ví dụ cụ   thể. Bài Hò ba lí được xây dựng trên câu: Trèo lên trên rẫy khoai lang- chẽ tre đan  sịa cho nàng phơi khoai.

Bài có cấu trúc 2 mảng “Xô” “Xướng” như sau:

Xô: Ba lí tang tình mà nghe, ta ba lí tình tang ba lí tình tang.

Xướng: Trèo lên trên rẫy khoai lang.

Xô: Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình tang.

Xướng: Chẽ tre mà đan sịa

Xô: la hố

Xướng: Cho nàng phơi khoai

Xô: khoan hố khoan la hố hò khoan.

2.2 /Chuẩn bị của Giáo viên:

- Bảng phụ chép “khung” của bài dân ca chuẩn bị hướng dẫn. Có thể chép cả nhạc hoặc chỉ chép lời ca phần đệm nguyên gốc, chừa khoản trống để điền lời ca   mới. Ta lấy bài Hò ba lí  dân ca Quảng Nam GK âm nhạc 8 làm mẫu.

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình tang. Trèo lên trên rẫy khoai lang.

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Chẽ tre mà đan sịa

la hố

Cho nàng phơi khoai

khoan hố khoan la hố hò khoan.

Bảng phụ chép bài mẫu là:

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

.................................................................

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

..............................................................

la hố

.............................................................

khoan hố khoan la hố hò khoan.

-  Chuẩn bị vài câu lục bát để thay thế câu hát gốc. dụ:

 


 

Này anh bạn trẻ kia ơi

Chẳng lo học tập, bạn cười người chê.

* Ghi chú: Bảng phụ chép bài mẫu có thể là chép cả nhạc, xem phụ  lục.

-  Thời lượng thực hiện giải pháp này không quá 5 phút.

 

 

B.  NỘI DUNG

I.  Mục tiêu:

Nhiệm vụ trọng tâm của đề tài là khai thác phương pháp mới về việc hướng dẫn người học đặt lời mới cho bài hát dân ca. Qua đó, GV được giải pháp cụ thể để  tiện lợi khi hướng dẫn người học có hiệu quả mà không bị thụ động; người học nắm được kiến thức để áp dụng sáng tạo.

II.  Mô tả giải pháp của đề tài:

1.   Thuyết minh tính mới:

Như đã trình bày ở trên, việc hướng dẫn HS đặt lời mới cho bài dân ca sau khi  đã được học hát dân ca trong chương trình giáo khoa, GV gặp nhiều khó khăn hướng dẫn không hiệu quả, dẫn đến HS khó hiểu thực hiện không đạt.

Đặt lời mới cho bài dân ca có nhiều phương pháp khác nhau, mỗi người có kinh nghiệm riêng nhất là đối với các nghệ nhân. Các nhạc sĩ thì họ có phương pháp, thủ pháp chuyên môn, ta không thể ứng dụng phương pháp chuyên nghiệp cho đối tượng học sinh phổ thông được. Sau đây là phương pháp cụ thể.

+ Giữ nguyên các từ đệm:

Hình thức này là đơn giản nhất, phù hợp với khả năng học sinh phổ thông. Sau khi đã xác định cấu trúc của bài dân ca được xây dựng trên câu lục bát hay 7 chữ, 8 chữ, ta chỉ việc thay câu mới đổi chỗ cho câu trong bài. Còn các từ đệm (nếu có) như là lá la, tình tính tang... thì giữ nguyên. Một điều không thể bỏ qua đó đối chiếu  luật bằng trắc giữa câu nguyên gốc với câu mới thay thế. (chỉ mang tính tương đối, chủ yếu là ở đầu và cuối câu).

Ta lấy bài Hò ba lí dân ca Quảng Nam làm mẫu. Trình tự tiến hành:

a/ GV phân tích cấu trúc của bài: bài được xây dựng trên câu lục  bát:

Trèo lên trên rẫy khoai lang – chẽ tre đan sịa cho nàng phơi khoai (gọi là “Xướng”). Kèm theo là phần ba lí: ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang,  ba lí tình tang (gọi là phần “Xô”). Ta giữ nguyên phần “Xô”, chỉ thay phần “Xướng” tức thay câu lục bát có luật bằng trắc tương đương.

b/ Treo bảng phụ hướng dẫn thay thế (với điều kiện HS đã học xong bai Hò ba  lí). Bảng phụ hướng dẫn có ghi bài nguyên gốc và đánh dấu chừa chỗ cho lời ca mới sẽ được thay thế. GV giới thiệu một câu lục bát để so sánh luật bằng trắc với câu gốc trong bài.

c/ Tiếp tục viết lần lược các từ trong câu mới vào vị trí song song với câu gốc ở bảng phụ đã chuẩn bị sẵn. Sau khi đã  hoàn thành bước này, GV hát mẫu cho HS  nghe lại bài gốc rồi tiếp tục hát bài mới vừa thay thế. Với trình tự như trên, GV có  thể đặt tiếp câu thứ hai, thứ ba yêu cầu HS cả lớp cùng hát với GV bài mới.

Ví dụ 1: (bài gốc)

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

 


 

Trèo lên trên rẫy khoai lang.

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Chẽ tre mà đan sịa

la hố

Cho nàng phơi khoai

khoan hố khoan la hố hò khoan.

Ví dụ 2: (bài mới)

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Này anh bạn trẻ kia ơi

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Chẳng lo mà học tập

la hố

Bạn cười người chê

khoan hố khoan la hố hò khoan.

Ví dụ 3: (bài mới)

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Cùng nhau ta hãy thi đua

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Quyết tâm mà học tập

la hố

Xây đời tương lai

khoan hố khoan la hố hò khoan.

Khuyến khích nhóm hoặc cá nhân giới thiệu một vài câu  ca dao  hoặc câu lục  bát mới đặt, có ý nghĩa để thay thế lời cho bài dân ca vừa hướng dẫn (phụ thuộc vào thời lượng và mức độ tiếp thu của HS GV cho thực nghiệm tại lớp hoặc cho các em về nhà tự làm để lần sau kiểm tra và hướng dẫn điều chỉnh). GV kiểm tra lại luật bằng trắc của câu mới để so sánh với luật  bằng trắc với câu nguyên gốc. Tiếp đến  cho HS lên bảng điền vào bài đúng vị trí cần thay thế. GV cùng cả lớp hát lời ca mới mà HS vừa ghi, sau đó nhận xét đúng sai, chỗ nào còn chưa phù hợp cần sửa chữa hoặc thay thế từ đồng nghĩa ...để hoàn chỉnh bài. Sau khi đã sửa chữa, GV thể hiện  lần nữa cho cả lớp nghe và cảm nhận. Để phát huy tính tích cực sáng tạo của HS, GV hướng dẫn và cho các em tự làm bài ở nhà với chủ đề mở rộng ( nhà trường, gia đình, quê hương, phong cảnh hoặc hài hước vân vân), để tiết học kế tiếp mang đến trình bày, GV đánh giá, hận xét và ghi điểm tốt cho các em.

Song trong dân ca không hoàn toàn cứng nhắc như bài gốc, thể thay đổi một số âm trong bài để thích ứng với từ ngữ, hoặc các âm khi hát lên nghe nghịch  dấu nhưng không được làm thay đổi tính  chất của làn điệu dân ca đó. Sự thay đổi  này gọi là dị bản trong dân ca.

Ta lấy bài Lí thiên thai dân ca Khu 5, có các lời ca cổ sau:

Lời 1: Trèo lên hòn núi thiên thai, thấy đôi chiền chiện ăn xoài chín cây. Lời 2: Chuột chê lúa lép không ăn, chuột chê bồ rách ra nằm bụi  tre.

Lời 3: Muốn đi cầu váng đóng đinh, cầu tre lắc lẽo ghập ghềnh khó  qua.

Xét về luật bằng trắc thì các câu trên có trùng nhau, nhưng về ngữ điệu thì có từ lại không trùng nhau. Chẳng hạn như Chiền chiện ở lời 1, Bồ rách ở lời 2, Lắc lẽo ở lời 3. nhưng ta xét thấy về tính chất âm nhạc của bài không hề thay đổi.

 


 

+ Thay thế các từ đệm bằng lời ca mới:

Việc thay thế các từ đệm bằng lời ca mới thường chỉ áp dụng cho người thành thạo hoặc cho HS có năng khiếu tốt nhằm để nâng cao. Phương pháp này cũng tương tự như phương pháp thứ nhất nhưng đòi hỏi phải sáng tạo lời ca nhiều hơn và phải chuẩn xác theo giai điệu vài tiết tấu của bài gốc. Ví dụ trích đoạn bài Hò ba lí:

Câu xô: Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang

Ta có thể đặt câu mới thay thế câu xô:

Tiếng hát câu hò rộn vang ta cùng vui đón mùa xuân rực rỡ ngàn  hoa.

Có thể dùng câu này cho câu xô chung cho cả bài, nhưng chú ý câu xướng    phải

có nội dung phù hợp với câu xô.

Ví dụ: Tiếng hát câu hò rộn vang ta cùng vui đón mùa xuân rực rỡ ngàn  hoa.

Cùng nhau ta múa ta ca

Tiếng hát câu hò rộn vang ta cùng vui đón mùa xuân rực rỡ ngàn  hoa.

Đón xuân (mà) tươi đẹp (la hố) chan hòa yêu thương

Khoan hố khoan la hố hò khoan.

Như đã nói trên, phần này dùng cho GV tham khảo là chủ yếu, bởi thời   lượng

cho phép trong tiết dạy không nhiều, nên khó có thể hướng dẫn cho cả  lớp.

2. Khả năng áp dụng:

+ Thời gian áp dụng hoặc thử nghiệm có hiệu quả:

Qua thời gian nghiên cứu và thử nghiệm, hướng dẫn HS tập đặt lời mới cho một bài dân ca ở các năm học, ở các khối lớp, chủ yếu vào đối tượng HS trung bình khá  trở lên ở các khối lớp 7, 8 và 9. Mặc dù đã gặp những khó khăn nhất định về thời lượng và sự tiếp thu không đồng đều của HS. Song vẫn đạt những kết quả đáng phấn khởi. Thực tế đã chứng minh khả năng viết lời mới cho bài dân ca của HS được thể hiện qua các câu lạc bộ có liên quan. Trong Câu lạc bộ Em yêu làn điệu dân ca do Liên Đội tổ chức, các em đã thể hiện tài năng của mình qua việc sáng tác lời ca mới  và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Sau đây là một số bài của HS đã được hướng dẫn sửa chữa:

Theo giai điệu bài Lí cây đa – dân ca quan họ Bắc Ninh, HS lớp 7 đặt lời  mới:

Cùng nhau ta múa, ta hát đón mùa xuân về (  rằng)

Hoa nở muôn màu khắp trời (rằng) chim hót vui rộn lòng người Đồng lúa xanh xanh, biển sóng tung tăng thuyền về

Quê mình đổi thay tươi đẹp, ta múa đón mùa xuân về,

ta hát đón mùa xuân về

Theo giai điệu bài Lí cây đa – dân ca quan họ Bắc Ninh,HS lớp 7 đặt lới  mới:

Mùa thu đang đến từng áng mây hồng bay về,

ngoài kia lá rơi nhẹ xuống sân và em hát em mừng nắng  mai.

Khắp nơi chim cùng hót vang chào mừng,

thu sang mọi nhà

êm đềm tiếng ca thanh bình cùng nhau giữ xóm làng ấm no và xây đất nước thêm thắm tươi”.

Theo giai điệu của bài Lí dĩa bánh bò – dân ca Nam Bộ, HS lớp 8 đặt lời  mới:

Quê hương hai tiếng (í a) sáng ngời

 


 

 

Chúng em gắng học thi đua quyết tiến Tháng ngày mong ước lớn khôn xây đời  Ì i í i i xây đời đời mai sau í i i xây đời

Tình tính tang tang là đời mai sau í i ì i í i

Theo Lí kéo chài – dân ca Nam Bộ, HS lớp 9 đặt lời mới:

Tiếng chim chiều mang nhiều nỗi nhớ,

nhớ về quê trong khúc dân ca, hò ơ.

Cùng nhau vang hát khúc ca trong tiếng ru  hời

với bao niềm lưu luyến thêm yêu cuộc đời,

câu ca thắm nồng, ơ hò ơ hò là hò ơ”.

Theo Lí kéo chài – dân ca Nam Bộ, HS lớp 9 đặt lời mới:

Hãy chăm học cho đời tươi sáng, hát bài ca yêu nước, yêu quê, bạn ơi! Cùng nhau xây đắp nước ta thêm vững thêm mạnh,  quyết tâm thì đâu khó, có chí sẽ thành.

Xây đắp nước nhà thêm đẹp, thêm giàu, Cho cuộc đời, cuộc đời tươi vui”.

Kết quả cụ thể trong thời gian áp dụng và đến năm học   2010-2011  như

sau:

 

* Kết quả của năm học 2009 - 2010:

STT

LỚP

SỐ HỌC SINH

THAM GIA

% ĐẠT YÊU CẦU

% KHÔNG ĐẠT

YÊU CẦU

1

6A1

53%

20%

33%

2

7A1

100%

63%

37%

3

8A1

63%

23%

40%

4

8A2

69%

25%

44%

5

8A3

47%

15%

32%

6

8A4

45%

17%

28%

7

9A1

30%

15%

15%

8

9A2

48%

16%

32%

9

9A3

30%

17%

13%

10

9A4

100%

61%

39%

 

 

* Kết quả năm học 2010 – 2011:

 

STT

LỚP

SỐ HỌC SINH

THAM GIA

% ĐẠT YÊU CẦU

% KHÔNG ĐẠT

YÊU CẦU

1

6A1

45%

17%

28%

2

6A2

40%

15%

25%

3

7A1

75%

45%

30%

4

7A2

69%

49%

20%

 


 

 

5

7A3

80%

50%

30%

6

8A1

50%

18%

32%

7

8A2

100%

65%

35%

8

8A3

100%

66%

34%

9

9A1

47%

32%

15%

10

9A2

63%

40%

23%

11

9A3

100%

62%

38%

12

9A4

30%

20%

10%

 

Kết quả trên tuy còn quá khiêm tốn, song nhận thấy một số học sinh thực hiện rất tốt còn số học sinh ít  có năng khiếu hơn  cũng có những tiến bộ hất định. Nếu áp  dụng phương pháp này thường xuyên hơn, rộng rãi hơn thì tin rằng ta sẽ có nhiều kết quả tốt hơn.

+ Khả năng áp dụng:

-   Đối với giải pháp hiện đang sử dụng thì giải mới này có nhiều ưu điểm: dễ sử dụng, dễ hiểu, rút ngắn thời lượng diễn đạt. Tôi tin rằng giải pháp này có thể thay thế các giải pháp cũ, vì giải pháp cũ không ràng, cụ thể chỉ ước lượng tùy theo  cách nghĩ của từng giáo viên.

-   Giải pháp này có khả năng áp dụng không chỉ trong phạm vi một lớp, một cấp học, một trường thể mở rộng cho nhiều đối tượng HS nhiều trường, nhiều  vùng từ các trường ở thành phố  và nông thôn. Giải pháp  này không chỉ dành cho  GV dạy nhạc và HS cấp THCS, có thể ứng dụng được cho tất cả mọi người khi muốn sáng tác mới lời dân ca.

3. Lợi ích kinh tế, xã hội:

-  GV sử dụng giải pháp này như tài liệu để phục vụ giảng dạy có hiệu quả cao. sở tốt để GV kiểm chứng, đánh giá tiết dạy khi dự giờ.

-   Là vốn kiến thức để sáng tác lời ca mới phục vụ các phong trào văn hóa văn nghệ, hát dân ca ở địa phương với nội dung gần gũi cuộc sống hiện tại của người  dân, góp phần bảo tồn và phát triển nền âm nhạc dân gian.

-   HS có thể tự khai thác, sáng tạo nhiều lời ca mới cho nhiều làn điệu, tạo được hứng thú cho người học. HS rất thích khi được hát bài hát của chính mình sáng tác   lời ca mới trước bạn bè, kích thích sự hứng thú, tạo không khí thi đua trong học tập.

 

C.  KẾT LUẬN

 

Công nghệ thông tin ngày nay phát triển như vũ bão, đất nước đang trên   đường hội nhập, để học sinh ở lứa tuổi thanh thiếu niên và các em học sinh THCS hiểu được những giá trị của nền âm nhạc dân gian để từ đó các em ý thức bảo vệ, xây dựng phát huy và nền âm nhạc dân gian nước nhà nhằm đóng góp vào việc bảo tồn và lưu giữ văn hoá phi vật thể của đất nước thì chúng ta cần phải những việc làm thiết thực ngay từ khi các em đang ngồi trên ghế nhà trường. Do vậy, việc dạy học nói chung việc dạy âm nhạc nói riêng cần phải trang bị những kiến thức

 


 

 

bản bên cạnh đó, chúng ta phải giáo dục cho học sinh biết yêu quý và phát  triển những giá trị văn hoá mà cha ông ta đã để lại qua việc dạy hát dân ca, những bài Âm nhạc thường thức, bài đọc thêm, một số tài liệu tham khảo  khác...

Dạy học là một nghệ thuật, giáo viên là một nghệ sỹ, với sự trợ giúp đắc lực của công nghệ thông tin, giáo viên thể thay đổi, đổi mới phương pháp trong từng giờ học, tiết học. Mỗi một tiết học hát, học âm nhạc thường thức có thể minh họa bằng hình ảnh để cho học sinh nắm vững hiểu rõ hơn về dân ca của vùng, miền mà các em đang được học, làm được như vậy chúng ta sẽ giảm bớt được sự nhàm chán, sự  thụ động của học sinh. Bản thân là một giáo viên giảng dạy môn Âm nhạc, với sự khám phá và ham học hỏi về Âm nhạc dân gian áp dụng nhiều phương pháp vào việc giảng dạy Âm nhạc dân gian trong trường THCS. Tạo sự hứng thú cho các em khi học hát dân ca, khi các em đã hứng thú say mê thì việc tập đặt lời ca mới cho bài dân ca càng có hiệu quả hơn.Thực tế đã chứng minh là chất lượng các giờ học Âm nhạc dân gian nhất giờ học hát các bài thuộc dân ca đem lại hiệu quả rất cao, các bài dân ca do các em tự đặt lời mới ngày càng nhiều. Sự hứng thú trong học tập của học sinh thể hiện rất nét, người giáo viên có nhiều cơ hội để nâng cao mở rộng lượng kiến thức cần cung cấp cho học sinh. Các dẫn chứng, minh họa chính xác hiệu quả hơn, cuối tiết học bên cạnh việc dạy và học môn Âm nhạc thì một  việc  quan trọng hơn đó là học sinh cũng đã một phần nào được giáo dục về thẩm mỹ, thái độ cảm thụ và thưởng thức âm nhạc; các em phần nào đã hình thành ý thức, thái độ biết yêu, gìn giữ nền Âm nhạc truyền thống của quê hương đất nước.

Lĩnh vực Âm nhạc dân gian rất rộng lớn phức tạp. Tuy nhiên, giáo viên giảng dạy bộ môn Âm nhạc cần làm cho giới trẻ và học sinh ngày nay  “yêu” và  “quý” Âm nhạc dân gian qua học hát dân ca, từ đó ý  thức gìn  giữ, phát huy và  bảo tồn nền Âm  nhạc dân gian nói riêng  bảo tồn phát huy nền văn hoá của dân  tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế của đất nước. Vì vậy, giảng dạy Âm  nhạc nói chung cũng như giảng dạy Âm nhạc dân gian, hướng dẫn các em đặt lời  mới, cần chịu khó đầu thời gian tìm hiểu về kiến thức, phương pháp truyền đạt, phương pháp đặt lời mới thì các giáo viên sẽ giảng dạy tốt bộ môn Âm nhạc ở nhà trường THCS.

Như đã nói trên, thời lượng dành cho học hát dân ca và  đặt lời mới cho bài  dân ca không nhiều vậy người GV cần phải nghiên cứu tận dụng thời gian hợp lí; tham mưu cấp lãnh đạo tạo điều kiện để hoạt động như thành lập câu lạc bộ “Em yêu làn điệu dân ca” hoặc lồng ghép vào các hoạt động ngoại khóa, các câu lạc bộ khác  có liên quan, hoặc tổ chức hội thi “Tiếng hát dân ca”... Tạo phong trào ca hát dân ca sôi nổi thì việc sử dụng giải pháp này càng có hiệu lực hơn.

Trên  đây là một số  kinh nghiệm  mà  tôi đã rút ra qua thời  gian  thực  nghiệm

giảng dạy, rất mong sự đóng góp ý kiến của đồng  nghiệp.

Tôi xin cam kết SKKN này là kết quả qua thời gian tôi dạy thử nghiệm, đúc  kết lại tại trường THCS Hoài Hương, Hoài Nhơn, Bình Định. Không sao chép bất cứ của ai. Nay tôi ghi lại để cùng đồng nghiệp tham khảo, góp ý, vận dụng.

Xin chân thành cảm ơn.

 


 

 

 

Hoài Hương, tháng 03 năm 2012

Người viết đề tài

 

 

Mai Xuân Đào

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHỤ LỤC:

 

Bài gốc:

HÒ BA LÍ

 


 

 

Dân ca: Quảng Nam

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

Bài mẫu:


HÒ BA LÍ


 

Dân ca: Quảng Nam

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

Bài mới:


HÒ BA LÍ


 

Dân ca: Quảng nam

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC:

..............................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

 


 

 

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

..........

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

 

HƯỚNG DẪN HỌC SINH ĐẶT LỜI MỚI CHO BÀI DÂN CA,

TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC ÂM NHẠC CẤP THCS

 


 

  1. Mở đầu

 

I.  Đặt vấn đề:

Trong nghị quyết Trung ương II khoá VIII của ban chấp hành  Trung  ương Đảng, có đề cập đến vấn đề: “Cần phải  giáo dục toàn diện, giáo dục Đức-Trí-Thể-  Mĩ trong nhà trường phổ thông”. Để góp phần đưa những đường lối, phương hướng của Đảng vào thực tiễn giáo dục. Tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ và việc làm của mình, những suy nghĩ về một phần nhỏ trong một mặt của giáo dục toàn diện, đó là giáo dục âm nhạc trong giáo dục thẩm mĩ. Hơn nữa lại là âm nhạc dân gian, đó là cái hồn của dân tộc, là tài sản vô giá, là bản sắc văn hoá dân tộc.

Hội nghị Trung ương V khoá VIII đã thông qua nghị quyết Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộcvà đây cũng là nền tảng tinh thần của xã hội chủ nghĩa và xã hội Cộng sản chủ  nghĩa.

Theo Hồ Chí Minh: “Văn hoá văn nghệ biểu hiện tập trung nhất của nền văn hoá, là đỉnh cao của đời sống tinh thần, văn nghệ phải gắn liền với thực tiễn của đời sống nhân dân, đó cuộc sống lao động sản xuất, chiến đấu, sinh hoạt xây dựng cuộc sống mới. Văn nghệ vừa phản ánh thực tiễn vừa hướng cho nhân dân thúc đẩy sự phát triển của thực tiễn ấy theo qui luật của cái đẹp. Văn nghệ phát triển sao cho xứng đáng với thời đại mới của đất nước và dân tộc, phải phục vụ cho quần chúng   và được quần chúng yêu thích, đem lại những chuyển biến tích cực trong tưởng, tình cảm, tâm hồn của con người”.

1/Thực trạng:

Trong chương trình âm nhạc được Bộ GD và ĐT đưa vào giảng dạy ở trường THSC gồm các phân môn: Học hát, tập đọc nhạc (TĐN) âm nhạc thường thức (ÂNTT). Trong phân môn TĐN có nội dung hướng dẫn cho học sinh (HS) đặt mới   lời ca cho bài TĐN; trong phân môn học hát có nội dung hướng dẫn cho HS đặt lời mới cho bài dân ca. Đây là một thử thách cho giáo viên trực tiếp giảng dạy. Bởi lẽ, chưa có một lớp hay một khóa nào đào tạo hay tập huấn cho GV về phương pháp đặt lời ca cho một giai điệu cho trước hay thay lời mới cho bài dân ca.

Tôi đã tìm hiểu một số đồng nghiệp cùng giảng dạy bộ môn Âm nhạc THCS trong huyện và dự một số tiết dạy có liên quan đến việc đặt lời mới cho bài TĐN và cho bài dân ca. Qua tâm tư với một số Thầy, Cô qua nhìn nhận thực tế trên tiết dạy, thì việc hướng dẫn cho HS đặt lời mới cho một bài TĐN và bài dân ca vẫn còn mang tính ước lệ, chưa có phương pháp cụ thể, mức độ lĩnh hội của HS cũng chỉ mang tính trừu tượng.

Qua thực tế giảng dạy trong hơn mười năm, tôi mạnh dạn sáng tạo dạy thử nghiệm tại trường THCS Hoài Hương, Hoài Nhơn, Bình Định đã thu được một vài kinh nghiệm trong việc hướng dẫn HS đặt lời mới cho bài TĐN và bài dân ca. Trong bài viết này, tôi không có tham vọng đi sâu nghiên cứu, khảo sát cả hai ý nói trên mà chỉ trình bày một vài phương pháp hướng dẫn HS đặt lời mới cho một số làn điệu  dân ca. Tôi không dám xem đây là phương pháp tối ưu, mà chỉ  là những  kinh  nghiệm chủ quan của bản thân tích lũy được trong quá trình thực nghiệm và giảng dạy.

 


 

Một động cơ thứ hai để tôi chọn đề tài này là nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS. Hơn nữa, việc đặt lời mới cho một bài dân ca là một việc làm hết sức    cần thiết không chỉ riêng cho lứa tuổi HS mà cho tất cả mọi người, nhằm góp phần phát huy và bảo tồn nền âm nhạc dân gian của dân tộc.

2/ Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới:

+ Ý nghĩa:

Âm nhạc là một loại hình âm thanh, bằng các hình tượng âm thanh phản ánh  cuộc sống xung quanh chúng ta. Âm nhạc có sức diễn cảm lớn, âm thanh thể hiện được tất cả những mà con người đã trải qua: niềm vui sướng, nổi khổ đau, sự  chống đối, nổi dằn vặt thầm kín trong tâm tư, những khát vọng, những ước mơ,  những hạnh phúc,...

Có lẽ chúng ta đều biết rằng âm nhạc đã nãy sinh trong quá trình tiến hóa của  con người. Được con người bảo vệ, chăm sóc và phát triển để rồi âm nhạc quay trở  lại phục vụ con người, giúp con người học tập, lao động sáng tạo. Trong kho  tàng âm nhạc dân gian của mỗi dân tộc đã phản ánh được những giai đoạn, những hiện tượng quan trọng của cuộc sống con người. Những lời hát ru khi con người mới chào đời, những bài hát đồng dao khi vừa mới lớn, những câu hát dao duyên tỏ tình khi trưởng thành; những bài hát chiến trận, những bài ca lao động và cả những khúc    nhạc tiễn đưa khi con người giã từ cuộc sống. Mỗi dân tộc đều tồn tại riêng nền nghệ thuật của dân tộc mình, đó là kho tàng quí báu của nền văn hóa dân tộc. Người Việt Nam chúng ta cũng vậy, chắc chắn rằng không có một ai không nhớ một bài ca, điệu hò, điệu lí của quê hương, của dân tộc mình.

Âm nhạc và con người không bao giờ tách rời nhau. Âm nhạc gắn chặc với con người khi mới lọt lòng qua giọng nói dịu dàng và lời ru ngọt ngào của người mẹ. Đó chính là bài học hát đầu tiên ở cuộc đời của mỗi con người. Trong nhà trường, âm nhạc là bộ phận giáo dục mĩ học cho các em, giúp các em trở thành những con người có văn hóa, giàu tính nhân văn và có lòng yêu Tổ Quốc, yêu đồng bào, có tính trung thực và lòng dũng cảm như Bác Hồ từng mong muốn. Giáo dục âm nhạc trong nhà trường cũng là nơi ươm mầm, nuôi dưỡng năng khiếu âm nhạc để kế thừa, phát triển cho nền âm nhạc nước nhà, giữ gìn, phát huy, bảo  tồn kho  tàng âm nhạc dân gian  của dân tộc.

Dân ca gắn bó với mỗi con người không thể rứt rời như tình mẫu tử. Bởi nhẽ  dân ca là tiếng nói thân thương dịu hiền, là lời ru ngọt ngào của người mẹ, của quê hương xứ sở, của nơi chôn rau cắt rốn. Hình ảnh quê hương khắc sâu trong mỗi con người qua những hình ảnh thả diều bắt bướm thời ấu thơ và những câu hò điệu lí, những khúc hát đồng dao,...

Tuổi thơ được nghe và được hát những câu hò, điệu lí quê hương như được   cùng nhau nô đùa, tắm mát dưới dòng sông quê, như được sự vỗ về ân cần, hiền hòa của người mẹ. Cũng chính từ đây,  nhân cách các em bắt đầu hình  thành và phát  triển. Tình yêu thương bạn bè, tình yêu quê hương đất nước tình yêu đồng loại ngày một bao dung, khí phách tự hào quê hương, tự hào dân tộc càng được hình thành  vững chãi.

Dân ca là sản phẩm tinh thần quí giá của cha ông để lại, nếu không được trân trọng, giữ gìn, học tập và phát triển vốn quí ấy thì hỏi trong tương lai không xa nền dân ca Việt Nam sẽ đi về đâu.

 


 

+ Tác dụng của giải pháp mới:

Với giải pháp mới, tạo được thuận lợi cho GV khi hướng dẫn HS thực hiện sáng tạo lời mới cho một bài dân ca từ đơn giản đến nâng cao.  Người  học  có  được phương pháp làm nền móng cho sự sáng tạo, phát triển, nâng cao chất lượng, nâng  cao tầm hiểu biết cho người học, không chỉ để áp dụng trong bài học mà còn ứng dụng thực tiễn vào sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian ở địa phương.

3/ Phạm vi nghiên cứu của đề tài:

+ Về không gian: Tôi chưa giám mở rộng địa bàn nghiên cứu trong toàn huyện, mà chỉ nghiên cứu trong phạm vi tại trường nơi đang giảng dạy.

+ Về đối tượng: Chưa mở rộng qui mô đại trà trong HS, chỉ trong phạm vi HS

khá, giỏi từ lớp 7 đến lớp 9 và một số HS thích ca hát tự nguyện tham  gia.

+ Về phạm vi chuyên môn của đề tài:

Trong những năm qua tôi đã nghiên cứu và thực hiện vấn đề này, mục đích ban đầu chỉ đơn giản là hướng cho các em có thái độ trâng trọng với nền âm nhạc dân gian. Nhưng sau đó các em lại rất thích, bởi các em được thể hiện tài năng của mình trước bạn bè, được hát một làn điệu dân ca mà chính bản thân mình sáng tạo ra một lời ca mới.

Từ yếu tố trên, tôi nhận thấy cần tạo điều kiện thuận lợi cho các em được phát huy hơn nữa trong việc đặt lời mới cho bài dân ca. Muốn  làm được việc này, cần phải nghiên cứu sâu vào mảng âm nhạc dân gian, tìm ra phương pháp hữu hiệu để giúp các em thực hiện.

Âm nhạc dân gian có 3 phần chính đó dân nhạc, dân ca và dân vũ. Trong đề tài này tôi chỉ đề cập đến dân ca. Dân ca là những bài hát do dân sáng tác ra, không  rõ tác giả. Dân ca Việt Nam rất phong phú đa dạng do đặc trưng vùng, miền, dân tộc anh em... Thể loại cũng rất đa dạng như: Hò, Vè, Hát đối đáp, Hát ru, Hát xoan, Hát ghẹo, các điệu lí vân vân. Song hầu hết các thể loại đều cấu trúc gọn gàng, thường được xây dựng trên câu ca dao lục bát. dụ:

+ Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên (Lí Mười thương: dân ca  Bình-Trị-Thiên)

+ Ai đem con sáo sang sông

Để cho con sáo sổ lồng bay xa (Lí con sáo: dân ca Nam  bộ)

+ Trèo lên trên rẫy khoai lang

Chẽ tre đan sịa cho nàng phơi khoai (Hò ba lí: dân ca Quảng  Nam)

+ Mài dừa đạp cám cho nhanh

Ép dầu để chải tóc anh, tóc nàng (Hò mài dừa: dân ca Bình  Định)

+ Con cò bay lả bay la

Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng (Cò lả: dân ca Đồng bằng Bắc  bộ)

Ngoài ra cũng có những làn điệu được xây dựng trên hai câu 7 chữ hoặc 8  chữ:

+ Gió mùa thu mẹ ru con ngủ

Năm canh chày thức đủ vừa năm (Ru con; dân ca Nam bộ)

+ Trèo lên quán dốc, ngồi gốc cây đa

Cho đôi mình gặp, xem hội đêm rằm (Lí cây đa: dân ca Quan họ Bắc  Ninh)

Cùng với sự phát triển của xã hội, lời ca của các làn điệu dân ca luôn được bổ sung để phù hợp với từng giai đoạn của lịch sử, phù  hợp  với từng nội dung sinh  hoạt, lao động, phù hợp với từng lứa tuổi...

 


 

Xin ví dụ một vài làn điệu để ví dụ và diễn giải:

Ví dụ 1: Bài Ví dặm dân ca Nghệ An

Lời gốc: Anh ơi khoan vội bực mình

Em xin kể lại  phân minh tỏ tường.

Lời mới: Trồng cây lại nhớ đến Người

Rừng bao cây mọc, thương Người bấy nhiêu.

Ví dụ 2:  Bài Hò ba lí dân ca Quảng Nam

Lời gốc: Trèo lên trên rẫy khoai lang

Chẽ tre đan sịa cho nàng phơi khoai.

Lời mới: Này anh bạn trẻ kia ơi

Chẳng lo học tập bạn cười người chê.

Trên đây chỉ là một vài ví dụ trong rất nhiều làn điệu dân ca được bổ sung,   thay

thế lời ca, chỉ một làn điệu thôi cũng có rất nhiều lời ca mới có nội dung khác  nhau.

II.  Phương pháp tiến hành đề tài:

1/Cơ sở lí luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu, tìm giải pháp của đề tài:

Trong chương trình giáo khoa Âm nhạc THCS, phần dạy - học hát dân ca chỉ mang tính tượng trưng, đại diện quá khiêm tốn.

-Lớp 6 bài con sáo Gò Công; Đi cấy dân ca Thanh Hóa

-Lớp 7 có bài Lí cây đa dân ca Quan họ Bắc  Ninh.

-Lớp 8 có bài Lí dĩa bánh bò dân ca Nam bộ; Hò ba lí dân ca Quảng  Nam.

-Lớp 9 bài Lí kéo chài dân ca Nam bộ.

Số lượng bài hát dân ca trong chương trình giảng dạy quá ít ỏi. Để góp thêm sự hứng thú cho HS, và tạo thêm lòng yêu thích dân ca, phát huy tính tích cực, sáng tạo đồng thời phát hiện được khả năng sáng tác lời ca mới ở các em. Người giáo viên  phải cung cấp cho các em những kiến thức về phương pháp đặt lời ca mới cho một giai điệu trước, cụ thể là cho một làn điệu dân ca.

Qua kết quả thử nghiệm ban đầu, tôi nghiên cứu sâu hơn và tìm phương pháp thực hiện đơn giản mà hiệu quả để hướng dẫn các em thực hiện.

2/Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo giải pháp:

2.1 /Tìm hiểu cấu trúc của bài hò, lí trước khi đặt lời mới:

Như đã trình bày, các làn điệu dân ca cấu trúc ngắn gọn thường được xây dựng trên câu ca dao lục bát. Có những làn điệu giữ nguyên câu lục bát mà không thêm những từ phụ, câu phụ, chỉ điệp lại những từ trong câu lục bát, hoặc đảo ngữ để làm cho giai điệu bài hát thêm phong phú nhưng vẫn không bị thay đổi nội dung   và tính chất đặc trưng nghệ thuật của làn điệu dân ca đó. Ví dụ bài Lí chiều chiều-  dân ca Nam bộ, được xây dựng trên câu

Chiều chiều ra đứng lầu tây- thấy cô gánh nước tưới cây ngô  đồng.

Thực tế lời ca là:

Chiều chiều ra đứng tây lầu tây, tây lầu tây

Thấy cô tang tình mà gánh nước, tưới cây, tưới cây ngô đồng

Xui ai xui trong lòng, trong lòng tôi thương Thương cô tưới cây ngô đồng.

Một ví dụ khác, bài Lí cây bông dân ca Nam bộ, được xây dựng trên câu:

Bông xanh bông trắng bông vàng- bông lê, bông lựu đố nàng mấy  bông.

 


 

Thực tế lời ca là:

Bông xanh, bông trắng rồi lại vàng bông ơi rượn ơi

Bông lê cho bằng bông lựu ơi rượn ơi  Là đố í a đố nàng, bông rồi lại mấy bông Là đố í a đố nàng, bông rồi lại mấy bông

Có những làn điệu tạo ra hai mảng, một mảng cố định và một mảng thay đổi. Mảng cố định dùng cho tập thể theo gọi là “xô”; mảng thay đổi dùng cho một người hát gọi là “xướng”. Mảng “xướng” có thể thay đổi lời ca mới, có nội dung   mới, mảng “xô” không thay đổi nhưng vẫn gắn khít chặt chẽ, không ảnh hưởng đến nội dung và tính chất nghệ thuật. Bài ba lí dân ca Quảng Nam là một ví dụ cụ   thể. Bài Hò ba lí được xây dựng trên câu: Trèo lên trên rẫy khoai lang- chẽ tre đan  sịa cho nàng phơi khoai.

Bài có cấu trúc 2 mảng “Xô” “Xướng” như sau:

Xô: Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình tang.

Xướng: Trèo lên trên rẫy khoai lang.

Xô: Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình tang.

Xướng: Chẽ tre mà đan sịa

Xô: la hố

Xướng: Cho nàng phơi khoai

Xô: khoan hố khoan la hố hò khoan.

2.2 /Chuẩn bị của Giáo viên:

- Bảng phụ chép “khung” của bài dân ca chuẩn bị hướng dẫn. Có thể chép cả nhạc hoặc chỉ chép lời ca phần đệm nguyên gốc, chừa khoản trống để điền lời ca   mới. Ta lấy bài Hò ba lí  dân ca Quảng Nam GK âm nhạc 8 làm mẫu.

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình tang. Trèo lên trên rẫy khoai lang.

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Chẽ tre mà đan sịa

la hố

Cho nàng phơi khoai

khoan hố khoan la hố hò khoan.

Bảng phụ chép bài mẫu là:

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

.................................................................

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

..............................................................

la hố

.............................................................

khoan hố khoan la hố hò khoan.

-  Chuẩn bị vài câu lục bát để thay thế câu hát gốc. dụ:

Này anh bạn trẻ kia ơi

Chẳng lo học tập, bạn cười người chê.

* Ghi chú: Bảng phụ chép bài mẫu có thể là chép cả nhạc, xem phụ  lục.

-  Thời lượng thực hiện giải pháp này không quá 5 phút.

 


 

 

 

B.  NỘI DUNG

I.  Mục tiêu:

Nhiệm vụ trọng tâm của đề tài là khai thác phương pháp mới về việc hướng dẫn người học đặt lời mới cho bài hát dân ca. Qua đó, GV được giải pháp cụ thể để  tiện lợi khi hướng dẫn người học có hiệu quả mà không bị thụ động; người học nắm được kiến thức để áp dụng sáng tạo.

II.  Mô tả giải pháp của đề tài:

1.   Thuyết minh tính mới:

Như đã trình bày ở trên, việc hướng dẫn HS đặt lời mới cho bài dân ca sau khi  đã được học hát dân ca trong chương trình giáo khoa, GV gặp nhiều khó khăn hướng dẫn không hiệu quả, dẫn đến HS khó hiểu thực hiện không đạt.

Đặt lời mới cho bài dân ca có nhiều phương pháp khác nhau, mỗi người có kinh nghiệm riêng nhất là đối với các nghệ nhân. Các nhạc sĩ thì họ có phương pháp, thủ pháp chuyên môn, ta không thể ứng dụng phương pháp chuyên nghiệp cho đối tượng học sinh phổ thông được. Sau đây là phương pháp cụ thể.

+ Giữ nguyên các từ đệm:

Hình thức này là đơn giản nhất, phù hợp với khả năng học sinh phổ thông. Sau khi đã xác định cấu trúc của bài dân ca được xây dựng trên câu lục bát hay 7 chữ, 8 chữ, ta chỉ việc thay câu mới đổi chỗ cho câu trong bài. Còn các từ đệm (nếu có) như là lá la, tình tính tang... thì giữ nguyên. Một điều không thể bỏ qua đó đối chiếu  luật bằng trắc giữa câu nguyên gốc với câu mới thay thế. (chỉ mang tính tương đối, chủ yếu là ở đầu và cuối câu).

Ta lấy bài Hò ba lí dân ca Quảng Nam làm mẫu. Trình tự tiến hành:

a/ GV phân tích cấu trúc của bài: bài được xây dựng trên câu lục  bát:

Trèo lên trên rẫy khoai lang – chẽ tre đan sịa cho nàng phơi khoai (gọi là “Xướng”). Kèm theo là phần ba lí: ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang,  ba lí tình tang (gọi là phần “Xô”). Ta giữ nguyên phần “Xô”, chỉ thay phần “Xướng” tức thay câu lục bát có luật bằng trắc tương đương.

b/ Treo bảng phụ hướng dẫn thay thế (với điều kiện HS đã học xong bai Hò ba  lí). Bảng phụ hướng dẫn có ghi bài nguyên gốc và đánh dấu chừa chỗ cho lời ca mới sẽ được thay thế. GV giới thiệu một câu lục bát để so sánh luật bằng trắc với câu gốc trong bài.

c/ Tiếp tục viết lần lược các từ trong câu mới vào vị trí song song với câu gốc ở bảng phụ đã chuẩn bị sẵn. Sau khi đã  hoàn thành bước này, GV hát mẫu cho HS  nghe lại bài gốc rồi tiếp tục hát bài mới vừa thay thế. Với trình tự như trên, GV có  thể đặt tiếp câu thứ hai, thứ ba yêu cầu HS cả lớp cùng hát với GV bài mới.

Ví dụ 1: (bài gốc)

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Trèo lên trên rẫy khoai lang.

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Chẽ tre mà đan sịa

la hố

Cho nàng phơi khoai

 


 

khoan hố khoan la hố hò khoan.

Ví dụ 2: (bài mới)

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Này anh bạn trẻ kia ơi

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Chẳng lo mà học tập

la hố

Bạn cười người chê

khoan hố khoan la hố hò khoan.

Ví dụ 3: (bài mới)

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Cùng nhau ta hãy thi đua

Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang.

Quyết tâm mà học tập

la hố

Xây đời tương lai

khoan hố khoan la hố hò khoan.

Khuyến khích nhóm hoặc cá nhân giới thiệu một vài câu  ca dao  hoặc câu lục  bát mới đặt, có ý nghĩa để thay thế lời cho bài dân ca vừa hướng dẫn (phụ thuộc vào thời lượng và mức độ tiếp thu của HS GV cho thực nghiệm tại lớp hoặc cho các em về nhà tự làm để lần sau kiểm tra và hướng dẫn điều chỉnh). GV kiểm tra lại luật bằng trắc của câu mới để so sánh với luật  bằng trắc với câu nguyên gốc. Tiếp đến  cho HS lên bảng điền vào bài đúng vị trí cần thay thế. GV cùng cả lớp hát lời ca mới mà HS vừa ghi, sau đó nhận xét đúng sai, chỗ nào còn chưa phù hợp cần sửa chữa hoặc thay thế từ đồng nghĩa ...để hoàn chỉnh bài. Sau khi đã sửa chữa, GV thể hiện  lần nữa cho cả lớp nghe và cảm nhận. Để phát huy tính tích cực sáng tạo của HS, GV hướng dẫn và cho các em tự làm bài ở nhà với chủ đề mở rộng ( nhà trường, gia đình, quê hương, phong cảnh hoặc hài hước vân vân), để tiết học kế tiếp mang đến trình bày, GV đánh giá, hận xét và ghi điểm tốt cho các em.

Song trong dân ca không hoàn toàn cứng nhắc như bài gốc, thể thay đổi một số âm trong bài để thích ứng với từ ngữ, hoặc các âm khi hát lên nghe nghịch  dấu nhưng không được làm thay đổi tính  chất của làn điệu dân ca đó. Sự thay đổi  này gọi là dị bản trong dân ca.

Ta lấy bài Lí thiên thai dân ca Khu 5, có các lời ca cổ sau:

Lời 1: Trèo lên hòn núi thiên thai, thấy đôi chiền chiện ăn xoài chín cây. Lời 2: Chuột chê lúa lép không ăn, chuột chê bồ rách ra nằm bụi  tre.

Lời 3: Muốn đi cầu váng đóng đinh, cầu tre lắc lẽo ghập ghềnh khó  qua.

Xét về luật bằng trắc thì các câu trên có trùng nhau, nhưng về ngữ điệu thì có từ lại không trùng nhau. Chẳng hạn như Chiền chiện ở lời 1, Bồ rách ở lời 2, Lắc lẽo ở lời 3. nhưng ta xét thấy về tính chất âm nhạc của bài không hề thay đổi.

+ Thay thế các từ đệm bằng lời ca mới:

Việc thay thế các từ đệm bằng lời ca mới thường chỉ áp dụng cho người thành thạo hoặc cho HS có năng khiếu tốt nhằm để nâng cao. Phương pháp này cũng tương tự như phương pháp thứ nhất nhưng đòi hỏi phải sáng tạo lời ca nhiều hơn và phải chuẩn xác theo giai điệu vài tiết tấu của bài gốc. Ví dụ trích đoạn bài Hò ba lí:

 


 

Câu xô: Ba lí tang tình mà nghe, ta hò ba lí tình tang ba lí tình  tang

Ta có thể đặt câu mới thay thế câu xô:

Tiếng hát câu hò rộn vang ta cùng vui đón mùa xuân rực rỡ ngàn  hoa.

Có thể dùng câu này cho câu xô chung cho cả bài, nhưng chú ý câu xướng    phải

có nội dung phù hợp với câu xô.

Ví dụ: Tiếng hát câu hò rộn vang ta cùng vui đón mùa xuân rực rỡ ngàn  hoa.

Cùng nhau ta múa ta ca

Tiếng hát câu hò rộn vang ta cùng vui đón mùa xuân rực rỡ ngàn  hoa.

Đón xuân (mà) tươi đẹp (la hố) chan hòa yêu thương

Khoan hố khoan la hố hò khoan.

Như đã nói trên, phần này dùng cho GV tham khảo là chủ yếu, bởi thời   lượng

cho phép trong tiết dạy không nhiều, nên khó có thể hướng dẫn cho cả  lớp.

2. Khả năng áp dụng:

+ Thời gian áp dụng hoặc thử nghiệm có hiệu quả:

Qua thời gian nghiên cứu và thử nghiệm, hướng dẫn HS tập đặt lời mới cho một bài dân ca ở các năm học, ở các khối lớp, chủ yếu vào đối tượng HS trung bình khá  trở lên ở các khối lớp 7, 8 và 9. Mặc dù đã gặp những khó khăn nhất định về thời lượng và sự tiếp thu không đồng đều của HS. Song vẫn đạt những kết quả đáng phấn khởi. Thực tế đã chứng minh khả năng viết lời mới cho bài dân ca của HS được thể hiện qua các câu lạc bộ có liên quan. Trong Câu lạc bộ Em yêu làn điệu dân ca do Liên Đội tổ chức, các em đã thể hiện tài năng của mình qua việc sáng tác lời ca mới  và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Sau đây là một số bài của HS đã được hướng dẫn sửa chữa:

Theo giai điệu bài Lí cây đa – dân ca quan họ Bắc Ninh, HS lớp 7 đặt lời  mới:

Cùng nhau ta múa, ta hát đón mùa xuân về (  rằng)

Hoa nở muôn màu khắp trời (rằng) chim hót vui rộn lòng người Đồng lúa xanh xanh, biển sóng tung tăng thuyền về

Quê mình đổi thay tươi đẹp, ta múa đón mùa xuân về,

ta hát đón mùa xuân về

Theo giai điệu bài Lí cây đa – dân ca quan họ Bắc Ninh,HS lớp 7 đặt lới  mới:

Mùa thu đang đến từng áng mây hồng bay về,

ngoài kia lá rơi nhẹ xuống sân và em hát em mừng nắng  mai.

Khắp nơi chim cùng hót vang chào mừng,

thu sang mọi nhà

êm đềm tiếng ca thanh bình cùng nhau giữ xóm làng ấm no và xây đất nước thêm thắm tươi”.

Theo giai điệu của bài Lí dĩa bánh bò – dân ca Nam Bộ, HS lớp 8 đặt lời  mới:

Quê hương hai tiếng (í a) sáng ngời Chúng em gắng học thi đua quyết tiến Tháng ngày mong ước lớn khôn xây đời  Ì i í i i xây đời đời mai sau í i i xây đời

Tình tính tang tang là đời mai sau í i ì i í i

Theo Lí kéo chài – dân ca Nam Bộ, HS lớp 9 đặt lời mới:

 


 

 

Tiếng chim chiều mang nhiều nỗi nhớ,

nhớ về quê trong khúc dân ca, hò ơ.

Cùng nhau vang hát khúc ca trong tiếng ru  hời

với bao niềm lưu luyến thêm yêu cuộc đời,

câu ca thắm nồng, ơ hò ơ hò là hò ơ”.

Theo Lí kéo chài – dân ca Nam Bộ, HS lớp 9 đặt lời mới:

Hãy chăm học cho đời tươi sáng, hát bài ca yêu nước, yêu quê, bạn ơi! Cùng nhau xây đắp nước ta thêm vững thêm mạnh,  quyết tâm thì đâu khó, có chí sẽ thành.

Xây đắp nước nhà thêm đẹp, thêm giàu, Cho cuộc đời, cuộc đời tươi vui”.

Kết quả cụ thể trong thời gian áp dụng và đến năm học   2010-2011  như

sau:

 

* Kết quả của năm học 2009 - 2010:

STT

LỚP

SỐ HỌC SINH

THAM GIA

% ĐẠT YÊU CẦU

% KHÔNG ĐẠT

YÊU CẦU

1

6A1

53%

20%

33%

2

7A1

100%

63%

37%

3

8A1

63%

23%

40%

4

8A2

69%

25%

44%

5

8A3

47%

15%

32%

6

8A4

45%

17%

28%

7

9A1

30%

15%

15%

8

9A2

48%

16%

32%

9

9A3

30%

17%

13%

10

9A4

100%

61%

39%

 

 

* Kết quả năm học 2010 – 2011:

 

STT

LỚP

SỐ HỌC SINH

THAM GIA

% ĐẠT YÊU CẦU

% KHÔNG ĐẠT

YÊU CẦU

1

6A1

45%

17%

28%

2

6A2

40%

15%

25%

3

7A1

75%

45%

30%

4

7A2

69%

49%

20%

5

7A3

80%

50%

30%

6

8A1

50%

18%

32%

7

8A2

100%

65%

35%

8

8A3

100%

66%

34%

9

9A1

47%

32%

15%

 


 

 

10

9A2

63%

40%

23%

11

9A3

100%

62%

38%

12

9A4

30%

20%

10%

 

Kết quả trên tuy còn quá khiêm tốn, song nhận thấy một số học sinh thực hiện rất tốt còn số học sinh ít  có năng khiếu hơn  cũng có những tiến bộ hất định. Nếu áp  dụng phương pháp này thường xuyên hơn, rộng rãi hơn thì tin rằng ta sẽ có nhiều kết quả tốt hơn.

+ Khả năng áp dụng:

-   Đối với giải pháp hiện đang sử dụng thì giải mới này có nhiều ưu điểm: dễ sử dụng, dễ hiểu, rút ngắn thời lượng diễn đạt. Tôi tin rằng giải pháp này có thể thay thế các giải pháp cũ, vì giải pháp cũ không ràng, cụ thể chỉ ước lượng tùy theo  cách nghĩ của từng giáo viên.

-   Giải pháp này có khả năng áp dụng không chỉ trong phạm vi một lớp, một cấp học, một trường thể mở rộng cho nhiều đối tượng HS nhiều trường, nhiều  vùng từ các trường ở thành phố  và nông thôn. Giải pháp  này không chỉ dành cho  GV dạy nhạc và HS cấp THCS, có thể ứng dụng được cho tất cả mọi người khi muốn sáng tác mới lời dân ca.

3. Lợi ích kinh tế, xã hội:

-  GV sử dụng giải pháp này như tài liệu để phục vụ giảng dạy có hiệu quả cao. sở tốt để GV kiểm chứng, đánh giá tiết dạy khi dự giờ.

-   Là vốn kiến thức để sáng tác lời ca mới phục vụ các phong trào văn hóa văn nghệ, hát dân ca ở địa phương với nội dung gần gũi cuộc sống hiện tại của người  dân, góp phần bảo tồn và phát triển nền âm nhạc dân gian.

-   HS có thể tự khai thác, sáng tạo nhiều lời ca mới cho nhiều làn điệu, tạo được hứng thú cho người học. HS rất thích khi được hát bài hát của chính mình sáng tác   lời ca mới trước bạn bè, kích thích sự hứng thú, tạo không khí thi đua trong học tập.

 

C.  KẾT LUẬN

 

Công nghệ thông tin ngày nay phát triển như vũ bão, đất nước đang trên   đường hội nhập, để học sinh ở lứa tuổi thanh thiếu niên và các em học sinh THCS hiểu được những giá trị của nền âm nhạc dân gian để từ đó các em ý thức bảo vệ, xây dựng phát huy và nền âm nhạc dân gian nước nhà nhằm đóng góp vào việc bảo tồn và lưu giữ văn hoá phi vật thể của đất nước thì chúng ta cần phải những việc làm thiết thực ngay từ khi các em đang ngồi trên ghế nhà trường. Do vậy, việc dạy học nói chung và việc dạy âm nhạc nói riêng cần phải trang bị những kiến thức cơ bản bên cạnh đó, chúng ta phải giáo dục cho học sinh biết yêu quý và phát  triển những giá trị văn hoá mà cha ông ta đã để lại qua việc dạy hát dân ca, những bài Âm nhạc thường thức, bài đọc thêm, một số tài liệu tham khảo khác...

Dạy học là một nghệ thuật, giáo viên là một nghệ sỹ, với sự trợ giúp đắc lực  của

công nghệ thông tin, giáo viên có thể thay đổi, đổi mới phương pháp trong từng giờ

 


 

 

học, tiết học. Mỗi một tiết học hát, học âm nhạc thường thức có thể minh họa bằng hình ảnh để cho học sinh nắm vững hiểu rõ hơn về dân ca của vùng, miền mà các em đang được học, làm được như vậy chúng ta sẽ giảm bớt được sự nhàm chán, sự  thụ động của học sinh. Bản thân là một giáo viên giảng dạy môn Âm nhạc, với sự khám phá và ham học hỏi về Âm nhạc dân gian áp dụng nhiều phương pháp vào việc giảng dạy Âm nhạc dân gian trong trường THCS. Tạo sự hứng thú cho các em khi học hát dân ca, khi các em đã hứng thú say mê thì việc tập đặt lời ca mới cho bài dân ca càng có hiệu quả hơn.Thực tế đã chứng minh là chất lượng các giờ học Âm nhạc dân gian nhất giờ học hát các bài thuộc dân ca đem lại hiệu quả rất cao, các bài dân ca do các em tự đặt lời mới ngày càng nhiều. Sự hứng thú trong học tập của học sinh thể hiện rất nét, người giáo viên có nhiều cơ hội để nâng cao mở rộng lượng kiến thức cần cung cấp cho học sinh. Các dẫn chứng, minh họa chính xác hiệu quả hơn, cuối tiết học bên cạnh việc dạy và học môn Âm nhạc thì một  việc  quan trọng hơn đó là học sinh cũng đã một phần nào được giáo dục về thẩm mỹ, thái độ cảm thụ và thưởng thức âm nhạc; các em phần nào đã hình thành ý thức, thái độ biết yêu, gìn giữ nền Âm nhạc truyền thống của quê hương đất nước.

Lĩnh vực Âm nhạc dân gian rất rộng lớn phức tạp. Tuy nhiên, giáo viên giảng dạy bộ môn Âm nhạc cần làm cho giới trẻ và học sinh ngày nay  “yêu” và  “quý” Âm nhạc dân gian qua học hát dân ca, từ đó ý  thức gìn  giữ, phát huy và  bảo tồn nền Âm  nhạc dân gian nói riêng  bảo tồn phát huy nền văn hoá của dân  tộc Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế của đất nước. Vì vậy, giảng dạy Âm  nhạc nói chung cũng như giảng dạy Âm nhạc dân gian, hướng dẫn các em đặt lời  mới, cần chịu khó đầu thời gian tìm hiểu về kiến thức, phương pháp truyền đạt, phương pháp đặt lời mới thì các giáo viên sẽ giảng dạy tốt bộ môn Âm nhạc ở nhà trường THCS.

Như đã nói trên, thời lượng dành cho học hát dân ca và  đặt lời mới cho bài  dân ca không nhiều vậy người GV cần phải nghiên cứu tận dụng thời gian hợp lí; tham mưu cấp lãnh đạo tạo điều kiện để hoạt động như thành lập câu lạc bộ “Em yêu làn điệu dân ca” hoặc lồng ghép vào các hoạt động ngoại khóa, các câu lạc bộ khác  có liên quan, hoặc tổ chức hội thi “Tiếng hát dân ca”... Tạo phong trào ca hát dân ca sôi nổi thì việc sử dụng giải pháp này càng có hiệu lực hơn.

Trên  đây là một số  kinh nghiệm  mà  tôi đã rút ra qua thời  gian  thực  nghiệm

giảng dạy, rất mong sự đóng góp ý kiến của đồng  nghiệp.

Tôi xin cam kết SKKN này là kết quả qua thời gian tôi dạy thử nghiệm, đúc  kết lại tại trường THCS Hoài Hương, Hoài Nhơn, Bình Định. Không sao chép bất cứ của ai. Nay tôi ghi lại để cùng đồng nghiệp tham khảo, góp ý, vận dụng.

Xin chân thành cảm ơn.

 

Hoài Hương, tháng 03 năm 2012

Người viết đề tài

 


 

 

Mai Xuân Đào

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHỤ LỤC:

 

 


 

Bài gốc:


HÒ BA LÍ


 

Dân ca: Quảng Nam

 


 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

Bài mẫu:


HÒ BA LÍ


 

Dân ca: Quảng Nam

 


 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

Bài mới:


HÒ BA LÍ


 

 

Dân ca: Quảng nam

 


 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC:

..............................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

........................................................................................................................................

..........

 


 

 

 

nguon VI OLET